Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




PHẦN 2 - CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT NĂM 1979: MỚI CHỈ LÀ HIỆP THỨ NHẤT ?

Masashi Nishihara , Kyoto University, Japan
7-4-2014      
Đọc tất cả 4 phân đoạn:
CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT  NĂM 1979: MỚI CHỈ LÀ HIỆP THỨ NHẤT ?

Hình bên: Cờ của khối COMECON (Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế: Council for Mutual Ecomic Aid) bao gồm các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô thành lập. Việt Nam gia nhập ComeCon ngày 19-6-1978. Các nước thành viên được phân công chặt chẽ về kinh tế. Cuba và Việt Nam thuộc về khu vực nông nghiệp, cung cấp nông phẩm cho các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu


Các sự chuẩn bị

Chính cường độ của sự bất hòa giữa hai nước đã khiến gần như không thể nào xác định được thời điểm mà họ khởi sự cho một cuộc đấu vũ trang. Song sẽ là điều hữu ích để cố gắng tái dựng các tiến trình chuẩn bị của họ.    

      Căn nguyên các sự chuẩn bị của Trung Quốc có thể được truy tìm về lại Tháng Năm 1978 hay sớm hơn. Một phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) được tường thuật đã nhóm họp trong Tháng Năm và được tin rằng đã quyết định “đáp ứng bằng hành động đối với các sự khiêu khích của Việt Nam” và “thách đấu nếu Việt Nam phóng ra một cuộc phiêu lưu quân sự” (một nguồn tin Hồng Kông, Jiji Press, 26 Tháng Bảy 1978). Nhiều phần rằng các cuộc thương thuyết cho hiệp ước hòa bình và hữu nghị Trung Quốc – Nhật Bản đang thảo luận đã được đẩy nhanh vào thời điểm này.  (Nó có thể đã diễn ra vào cuối Tháng Năm sau khi có cuộc thăm viếng của Zbigniew Brzezinski tại Bắc Kinh, sự kiện rất có thể đã cổ vũ giới lãnh đạo Bắc Kinh lấy một lập trường cứng rắn hơn đối với Việt Nam và Liên Bang Sô Viết).

       Quyết định Tháng Năm của Trung Quốc, nếu được tường thuật chính xác, đã được đưa ra để đối đáp với lời tuyên bố của Tướng Giáp trong Tháng Một rằng 1978 sẽ là một năm quan trọng cho người Việt Nam, và với lời kêu gọi của Tướng Văn Tiến Dũng hồi Tháng Tư về việc theo sát hơn tình trạng vũ khí trang bị, kỷ luật quân đội nghiêm ngặt hơn, và nâng cao sự chuẩn bị tác chiến của đất nước.  Rõ ràng hồi đầu năm, “như một bước tiến quân sự để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh chống Trung Quốc”, Chính Phủ Việt Nam đã khởi sự “một hành động ‘thanh lọc’ toàn diện” bằng việc trục xuất một cách tàn nhẫn các người Việt gốc Hoa và những người khác sinh sống dọc theo phía Việt Nam của biên giới (Beijing Review, số 12, 23 Tháng Ba 1978, trang 23).  Những gì đã xảy ra tại tỉnh lỵ của Lào Cai có thể mang tính chất điển hình; các cư dân của nó được lệnh tái định cư tại Hà Khẩu, một thành phố Trung Quốc tại tỉnh Vân Nam, sau này đã được củng cố với các nơi đóng quân bên dưới mặt đất.  Sau đó, theo các lời tuyên bố của Trung Quốc, phía Việt Nam đã di chuyển chính quyền tỉnh Lào Cai về Yên Bái (Beijing Review, số 8, 23 Tháng Hai 1979, trang 13).

       Các sự căng thẳng dâng cao nhanh hơn, bắt đầu khoảng Tháng Sáu. Vào cuối Tháng Năm, Việt Nam đã âm mưu lật đổ Chính Phủ của Pol Pot, mặc dù Pol Pot có tuyên bố rằng Việt Nam đã bắt đầu các sự chuẩn bị chống lại ông ta ngay từ Tháng Hai 1978.  Điều được đồn đãi rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã tổ chức một Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Tư bí mật của Ủy Ban Trung Ương trong khoảng thời gian đó (Far Eastern Economic Review, 23 Tháng Hai 1979, trang 33).  Vào hôm 5 Tháng Sáu, Trung Quốc đã bãi bỏ hơn hai mươi mục khoản viện trợ kinh tế cho Việt Nam và vào hôm 19 Tháng Sáu Trung Quốc đã ra lệnh đóng cửa ba tòa lãnh sự của Việt Nam tại miền nam Trung Quốc.  Mặc dù nhật kỳ chính xác vẫn chưa được xác nhận, vào lúc nào đó trong đầu Tháng Sáu, Ủy Ban Trung Ương của ĐCSVN có lẽ đã tổ chức một phiên họp bí mật của Bộ Chính Trị (mặc dù một số người tranh luận rằng phiên họp này xảy ra khi Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Tư được triệu tập).  Điều dễ dàng để giờ đây suy đoán rằng Ủy Ban Trung Ương đã quyết nghị rằng bởi Trung Quốc đang theo đuổi một chính sách thù nghịch đối với Việt Nam, Việt Nam phải gia nhập Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế (Council for Mutual Ecomic Aid: COMECON) và tăng cường năng lực quân sự của nó với viện trợ của Sô Viết, và củng cố sự phòng thủ biên giới tây nam của nó.

       Trong bất kỳ trường hợp nào, tiếp theo phiên họp đó, Chính Phủ Việt Nam đã gia nhập khối COMECON hôm 29 Tháng Sáu, sự kiện chỉ khiêu khích thêm sự trả đũa từ Trung Quốc, nước đã chấm dứt hoàn toàn tất cả khoảng 80 dự án viện trợ hôm 3 Tháng Bảy.  Trong Tháng Sáu, Chính Phủ Hà Nội đã bắt đầu nâng cao cấp số trưng binh và tổ chức “lính xung kích” và dân quân đặc biệt.  Các sự tường thuật báo chí đã xuất hện, vào khoảng thời gian này, về một số mười lăm sư đoàn Trung Quốc và năm sư đoàn Việt Nam đối diện nhau ngang qua biên giới (Newsweek, 3 Tháng Bảy 1978, trang 6).  Các nhà lãnh đạo chủ chiến quá tự tin tại Hà Nội cầm đầu bởi Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp có thể đã nghĩ có lợi hơn về mặt chính trị khi giữ các quan hệ tại biên giới sôi sục, hầu duy trì tinh thần trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNVN) và lôi kéo sự chú ý của dân chúng Việt Nam ra khỏi các khó khăn kinh tế.

       Trong khi các cuộc đàm phán song phương về tỵ nạn sau hết đã khởi sự hôm 8 Tháng Tám, cả hai bên đều đã thực sự chuẩn bị cho bất kỳ tình huống nào.  Bộ Trưởng Quốc Phòng Xu Xianqian đã viết một bài báo chỉ một tuần trước đó nhan đề “Nâng Cao Sự Cảnh Giác Của Chúng Ta và Hãy Chuẩn Bị Để Chiến Đấu Một Cuộc Chiến Tranh”.  Vào hôm 14 Tháng Tám, ĐCSVN đưa ra một lời kêu gọi đến các đảng viên của nó, “Chuẩn Bị Cho Một Cuộc Chiến Tranh Trên Quy Mô Lớn!”  Vào hôm 25 Tháng Chín, Việt Nam đã phản đối sự hiện diện của các binh sĩ Trung Quốc dọc theo biên giới, và chỉ hai ngày sau đó phía Trung Quốc đã kết án Việt Nam về các sự chuẩn bị chiến tranh dọc biên giới.  Trong hai tuần lễ cuối của Tháng Tám, Liên Bang Sô Viết đã không vận một sụ tiếp tế lớn lao các vũ khí đến Hà Nội (The Washington Post, 2 Tháng Chín 1978).

       Ở giai đoạn này, chúng ta không thể nói một cách chính xác thời điểm khi Việt Nam quyết định một cách chính thức việc ký kết Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác với người Nga.  Có thể là ở Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Tư của Ủy Ban Trung Ương ĐCSVN được tổ chức trong Tháng Hai, hay tại Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Năm được nghĩ được triệu tập lúc nào đó giữa đầu Tháng Chín và cuối Tháng Mười.  Nhưng điều quan trọng ở đây là bản hiệp ước với người Nga tượng trưng cho một trong các giai đoạn sau cùng cho một cuộc chiến tranh sớm được phát động chống lại chế độ Pol Pot trong mùa khô sắp tới.  Không kém quan trọng trong các giai đoạn sau cùng là sự thiết lập hôm 2 Tháng Mười Hai Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia Kampuchea Cứu Nguy Dân Tộc (MTTNQGKCNDT) (Kampuchean National United Front for National Salvation: KNUFNS), một vỏ bọc cho sự xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt.  Khi hiệp ước Sô Viết – Việt Nam được ký kết, cả Bắc Kinh lẫn chế độ Pol Pot đều tin rằng Hà Nội đang hoạch định một sự can thiệp quân sự lớn lao vào Kampuchea với sự ủng hộ của Sô Viết.  Với giả định đó, phía Trung Quốc đã khởi sự chuẩn bị một lần nữa để đối phó với tình thế xuất hiện.  Chính trong khung cảnh này nhịp bước nhanh hơn của các cuộc thương nghị của Trung Quốc nhằm tái thiết lập các quan hệ với Hoa Kỳ khởi sự có ý nghĩa rõ ràng.

       Hiệp ước Sô Viết – Việt Nam hẳn đã phải thuyết phục được phía Trung Quốc về sự hữu dụng của việc bình thường hóa các quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc trong việc tái lập một cán cân quyền lực cấp vùng thuận lợi cho Trung Quốc.  Vào cuối Tháng Bảy 1978, Việt Nam cũng tiếp xúc với Hoa Kỳ.  Việt Nam đã từ bỏ các điều kiện tiên quyết trước đó về các khoản bồi thường vào khoảng 4,750 triệu Mỹ Kim, nhưng sự đối xử vô nhân đạo với chính người dân của nó, các binh sĩ của nó tại Kampuchea, và các liên hệ chặt chẽ hơn của nó với Moscow khiến cho Washington cảnh giác nhiều hơn.  Chính vì thế Hoa Kỳ đã đáp ứng một cách thuận lợi với sự sẵn lòng của Trung Quốc, được biểu lộ một cách lặng lẽ hồi đầu Tháng Mười Hai, để thỏa hiệp trên vấn đề Đài Loan hầu thiết lập các quan hệ ngoại giao đầy đủ.

       Chính Phủ Hoa Kỳ đã muốn giữ lại quyền để tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, ngay dù sau Tháng Một 1979, khi Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương với Trung Hoa Dân Quốc sẽ bị hủy bỏ.  Giới lãnh đạo Trung Quốc đã không thể chấp nhận điều này.  Điểm đó đã được tranh luận giữa hai bên trong các cuộc thương thảo cứng rắn trong suốt hai tuần lễ đầu tiên của Tháng Mười Hai.  Kết quả là, trong lời tuyên bố với báo chí của Chủ Tịch Hoa Quốc Phong hôm 15 Tháng Mười Hai, “Hai bên đã có các sự khác biệt về điểm này.  Dù thế, chúng tôi đã đạt được một sự thỏa thuận trên bản thông báo chung [cho sự bình thường hóa] (Beijing Review, số 51, 22 Tháng Mười Hai 1978, các trang 10-11).  Rất nhiều phần như thể Trung Quốc đã thỏa hiệp với Hoa Thịnh Đốn vào giờ phút chót.  Vào giữa Tháng Mười Hai, sự liên hệ giữa sự bình thường hóa các quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc và hành động quân sự kế tiếp của Trung Quốc đánh Việt Nam thì không rõ rệt.  Nhưng cả hai việc đều liên quan một cách chặt chẽ trong chiến lược của Bắc Kinh, như Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ Charles Percy đã nói, “Giờ đây chúng ta biết lý do tại sao Trung Quốc lại bày tỏ sự vội vã như thế trong việc bình thường hóa các quan hệ với Hoa Kỳ”. (Time, 5 Tháng Ba 1979, trang 35).

       Một số sự tường thuật cho thấy rằng, sau bản thông cáo ngày 15 Tháng Mười Hai, trong thực tế bảo đảm an ninh của Đài Loan, Bắc Kinh đã khởi sự chuyển một số binh sĩ thuộc Quân Khu Phúc Kiến đến các biên giới phía bắc và phía nam (xem, thí dụ, Kyodo News Service (Hãng Thông Tấn Kyodo), 6 Tháng Một 1979), nhưng các sự di chuyển binh sĩ như thế không hề được xác nhận.  Song điều đã xuất hiện một cách rõ ràng hôm 25 Tháng Một là sự thay thế Tư Lệnh Quân Khu Côn Minh, Wang Bicheng, bằng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi).  Dương, một cựu tư lệnh Quan Khu Vũ Hán, được củ làm tư lệnh các lực lượng Mặt Trận Phương Nam để giao tranh với phía Việt Nam (Asahi Shimbun, 18 Tháng Hai 1979).  Tham Mưu Trưởng của họ Dương là Zhang Tingfa, tư lệnh Không Lực QĐNDGPTQ và là một ủy viên của Bộ Chính Trị của Đảng.  Họ Dương là một chiến sĩ thiện chiến với kinh nghiêm trong Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên.  Ông ta đã được thăng chức làm phó tư lệnh thứ nhì trong năm 1954.  Điều quan trọng hơn nữa là trong năm 1967 Yang đã cầm đầu một phái đoàn thân hữu Trung Quốc sang Việt Nam và đã có một cơ hội để nghiên cứu các khả năng quân sự của Việt Nam một cách chặt chẽ.  Chính vì thế, sự bổ nhiệm ông ta là thích hợp, khi các binh sĩ của ông sẽ phải chiến đấu trên địa hình Việt Nam, một nghìn thước cao hơn mặt biển.  Sự bổ nhiệm họ Zhang cũng như thế, phán đoán từ sự tường thuật trên báo chí rằng Trung Quốc có độ 700 đến 1,000 máy bay sẵn sàng cho sự sử dụng tức thời, mặc dù chỉ có ít chiếc là thực sự tham chiến.  Cũng cần phải ghi nhận rằng, tại Phiên Họp Khoáng Đại Thứ Ba của Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ, được triệu tập từ 18 đến 22 Tháng Mười Hai 1978, một trong các đồng sự thân cận nhất của Đặng [Tiểu Bình], Geng Biao, đã được bổ nhiệm làm bí thư của Quân Ủy – một chuyển động có ý nghĩa khác để chuẩn bị cho “cuộc chiến tranh của họ Đặng”.

       Trong 1978, nếu các lời tuyên bố của Trung Quốc là chính xác, Việt Nam đã tổ chức ba cuộc trưng binh, bổ sung khoảng 400,000 lính chính quy vào quân đội của nó, và đã gọi tái ngũ khoảng 200,000 cựu chiến binh cho các đơn vị quân đội.  (Sự bổ sung khoảng 600,000 lính này sẽ đem mức độ lực lượng Việt Nam tổng cộng lên tới 1,200,000, không mấy sai biệt với con số 1,023,000 lính được đưa ra trong tập sách thường đáng tin cậy nhan đề Military Balance 1979-80).  Vào cuối Tháng Mười Hai năm đó, Hà Nội đã đồn trú khoảng mười bốn sư đoàn dọc theo biên giới Kampuchea và đã có các dâu hiệu rằng một số trong bốn sư đoàn của nó trú đóng tại Lào cũng đang trên đường hướng xuống phía nam. Nếu chỉ có cuộc tranh chấp Việt Nam – Kampuchea, Trung Quốc có thể không xem là cần thiết để “dạy một bài học” cho Việt Nam.  Nhưng khi các biên giới của chính Trung Quốc bị đe dọa, nó cảm thấy bị bắt buộc phải bình định chúng, như nó đã làm trên biên giới Triều Tiên hồi cuối năm 1950 và biên giới Ấn Độ trong năm 1962.  Các con số chính thức được phổ biến bởi hai chính phủ về tần số của các biến cố biên giới thì không phù hợp nhau, nhưng chúng làm liên tưởng đến sự dâng cao của các biến cố sau năm 1975.  Phía Trung Quốc tuyên xác 121 vụ gây ra bởi Việt Nam và phía Việt Nam tuyên xác 179 vụ bị khiêu khích bởi Trung Quốc trong năm 1974, được theo sau, lần lượt, bởi 439 và 294 biến cố cho năm 1975; 986 và 812 vụ cho năm 1976; 752 và 873 cho năm 1977; và 1108 và 583 vụ cho năm 1978.  Trong khi có một sự sai biệt lớn giữa hai con số của năm 1978, Trung Quốc cho rằng sự gia tăng rõ rệt tới 1108 vụ năm đó có liên hệ chặt chẽ với sự tăng cường chính sách “bành trướng chủ nghĩa” đương thời khi đó của Việt Nam.

       Tờ Nhân Dân Nhật Báo ngày 25 Tháng Mười Hai 1978 có đăng tải bài quan điểm ban biên tập, “Có một Giới Hạn cho sự Chịu Đựng của Trung Quốc”, trong đó nó đã nêu ý kiến về “một cuộc chiến tranh trừng phạt”.  Bài báo phát biểu:

Các nhà cầm quyền Việt Nam đã đi đủ xa trong việc theo đuổi đường hướng chống Trung Quốc của họ.  Có một giới hạn cho sự chịu đựng và kiềm chế của nhân dân Trung Quốc.  Trung Quốc không bao giờ bắt nạt, và sẽ không bao giờ tỏ vẻ bắt nạt, bất kỳ nước nào; nó cũng sẽ không để cho mình bị dọa nạt bởi các nước khác.  Nó sẽ không bao giờ tấn công trừ khi bị tấn công.  Nhưng nếu nó bị tấn công, chắc chắn nó sẽ phản công.  Trung Quốc thực sự nghĩ như những gì nó nói ra.  Chúng tôi muốn cảnh cáo các nhà cầm quyền Việt Nam rằng nếu họ dựa vào sự ủng hộ của Moscow để tìm cách được đằng chân lân đằng đầu và tiếp tục hành động trong một cung cách không kiềm chế, họ nhất quyết sẽ gặp phải sự trừng phạt mà họ xứng đáng [nhận lãnh].  Chúng tôi đang nói với các người điều này vào lúc này.  Đừng than phiền sau này rằng chúng tôi đã không trao cho các người một sự cảnh cáo rõ ràng trước (Beijing Review, số 52, 29 Tháng Mười Hai 1978, trang 24).

       Bài quan điểm ban biên tập có thể có chủ định tạo áp lực trên quân đội Việt Nam ngay khi sắp sửa tiến vào Kampuchea, nhưng quan trọng hơn, nó cho thấy rằng chính phủ Bắc Kinh đã hoạch định về việc trừng phạt Hà Nội ra sao trước khi Hà Nội khởi sự cuộc xâm nhập quân sự của nó vào Kampuchea.  Khi phía Việt Nam kỷ niệm Ngày Quân Đội của họ hôm 21 Tháng Mười Hai, Bắc Kinh đã đóng cửa dịch vụ đường hỏa xa từ biên giới tới Hà Nội, chính vì thế, cắt đứt đường chở nhiên liệu từ Trung Quốc, tương đương vào khoảng một phần ba số dầu của Việt Nam.

       Trung Quốc đã có nhiều hơn một việc để làm.  Đó là cuộc thăm viếng của họ Đặng tại Hoa Thịnh Đốn.  Trong Tháng Mười, ông ta đã hoàn tất một cuộc thăm viếng thành công tại Tokyo, xuất hiện lần đầu tiên trước một cuộc họp báo kiểu Tây Phương, sự kiện mà ông đã xử dụng để binh vực cho một “mặt trận thông nhất chống bá quyền”.  Vào cuối Tháng Mười Một, họ Đặng có nói với một chính trị gia Nhật Bản sang thăm viêng (Yoshikatsu Takeiri, Chủ Tịch Đảng Komeito) về niềm ước muốn của ông sang thăm Hoa Kỳ.  Sau một vài sự quanh co, Hoa Thịnh Đốn đã đưa ra một lời mời chính thức đến họ Đặng hôm 11 Tháng Mười Hai.  Vào đầu Tháng Một, các nguồn tin tình báo Mỹ phổ biến cho báo chí tin tức rằng một số lượng lớn lao các binh sĩ Trung Quốc đã tập hợp dọc theo biên giới phía nam “trong hai tuần qua”.  Cuộc thăm viếng của họ Đặng đên Hoa Kỳ đã được quyết định vào ‘một ngày (9 Tháng Một) trước khi nó được loan báo”, theo lời của Richard Holbrooke (xem bài diễn văn của ông ta tại Asia Society, New York, 24 Tháng Một 1979).  Đó là một cuộc thăm viếng được sắp xếp một cách vội vã, từ điều mà họ Đặng hẳn đã phải tính toán hiệu quả của “lá bài Mỹ” được dùng để chống lại “chính sách bá quyền” của Sô Viết.

       Trong cuộc thăm viếng của ông ta tại Hoa Kỳ từ 29 Tháng Một đến 5 Tháng Hai, họ Đặng đã bị khuyến cáo bởi Tổng Thống Carter về hành động trừng phạt chống Việt Nam, nhưng ông ta dường như đã không mấy để ý đến điều này.  Trong một buổi ăn trưa với một nhóm ký giả Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn hôm 31 Tháng; Một, ông ta có nói:

Chúng tôi gọi Việt Nam là Cuba của Phương Đông.  Nếu bạn không dạy cho họ vài bài học cần thiết, họ sẽ không biết phải quấy là gì … Nhưng về hành động nào được thực hiện, chúng ta sẽ phải chờ xem.  Tôi có thể nói hai điều: một, phía Trung Quốc chúng tôi thực sự nghĩ như những gì nói ra; và hai, chúng tôi không hành động một cách hấp tấp (Beijing Review, số 6, 9 Tháng Hai 1979, các trang 13-14).

       Họ Đặng hẳn đã nghĩ Chính Quyền Carter có thể không giúp đỡ nhưng mặc nhiên đồng ý, nếu không ủng hộ, cuộc tấn công của Tr8ung Quốc vào Việt Nam.  Từ quan điểm của Trung Quốc, sẽ là điều gây bối rối cho Carter, trong thực tế, có tính chất bất khả về mặt chính trị, để hủy bỏ “tuần trăng mật” với Bắc Kinh chỉ vài tuần lễ sau khi kết thúc các cuộc đàm phán bình thường hóa vốn được thương thảo lâu dài.

       Vào hôm 2 Tháng Hai, các nguồn tin của Chính Phủ Mỹ khiến nghĩ rằng Trung Quốc sẽ sớm thực hiện “một cuộc tấn công giới hạn”.  Trên đường về nước, họ Đặng đã dừng chân tại Tokyo, và gặp gỡ, trong số các người khác, Thủ Tướng Masayoshi Ohira và cựu Thủ Tướng Kakuei Tanaka, là những người mà một lần nữa, họ Đặng đã thuyết giảng về nhu cầu”‘chế tài” chống Việt Nam.  Ngày sau khi ông về nước, vào hôm 9 Tháng Hai, ông đã triệu tập Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị, cơ cấu đã quyết định “trừng phạt” Việt Nam.  Theo sau đó, các bản tin đài phát thanh và báo chí của Bắc Kinh đã tung ra một loạt các sự kết án Việt Nam vì sự cư xử của nó tại các khu vực biên giới và tại Kampuchea, hiển nhiên đã được thiết kế để hướng đến dư luận thế giới và trong nước hậu thuẫn cho hành động quân sự sắp diễn ra của nó.  Vào ngày 12 Tháng Hai, Chủ Tịch Hoa Quốc Phong đã triệu tập một phiên họp của Ủy Ban Quân Sự của Ủy Ban Trung Ương Đảng.  Tuy nhiên, họ Đặng, đã khống chế các diễn tiến phiên họp với tư cách phó chủ tịch quân ủy kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng QĐGPNDTQ.

       Tổng Thống Carter, hay biết về sự bùng nổ sắp xảy ra của cuộc chiến tranh Trung-Việt, đã triệu tập tại Tòa Bạch Ốc buổi tối (giờ Hoa Thịnh Đốn) hôm 16 Tháng Hai, một phiên họp đặc biệt đã quyết định về lập trường căn bản của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến tranh.  Điều đã được quyết định trong số các điều khác, là không can thiệp vào các chiến sự giữa các nước cộng sản, không để cho sự bùng nổ leo thang, và không để cho cuộc chiến tranh làm phương hại các quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc và an ninh của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á.

Nguồn: Gió O
(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét