Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




TIẾN TRÌNH XUNG ĐỘT TRÊN BIỂN ĐÔNG & VIỆT NAM GIỮA BA TẦNG TRANH CHẤP

Tác giả: Vikram Nehru
Người dịch: Đỗ Quyên
23-8-2012

Căng thẳng trên Biển Đông đang phát triển chỉ theo một hướng. Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền mâu thuẫn dường như đã bắt đầu một quá trình xung đột. Dù vẫn còn ở mức thấp nhưng xác suất xung đột nổ ra đang trên đà tăng.

Quỹ đạo hiện tại là “thua-thua-thua” đối với tất cả bên liên quan, kể cả Trung Quốc, Đông Nam Á lẫn các nước thuộc bên thứ ba trong Vành đai Thái Bình Dương như Mỹ – vốn dĩ có quyền lợi lớn nếu Biển Đông được hòa bình. Vào thời điểm này, trọng tâm không nên là giải quyết các yêu sách đối kháng nhau. Thay vì thế, giới ngoại giao phải cố gắng hạ nhiệt và làm sao để các bên đều tiến hành các biện pháp xây dựng lòng tin, nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực. Chỉ khi nào những cái đầu nóng đã nguội đi, thì các nước có liên quan mới có thể chuyển sự chú ý sang việc giải quyết những vấn đề dài hạn hơn, về chủ quyền và quyền tài phán của các đảo trên Biển Đông.

Lịch sử 40 năm tranh chấp trong khu vực đã có sự leo thang đều đều, xen kẽ với những cuộc xung đột mà thường là nhanh chóng được kiềm chế. Căn cứ vào “đường 9 đoạn” được xác định mơ hồ (giảm từ 11 đoạn năm 1953 xuống còn 9 đoạn), Trung Quốc ra yêu sách đòi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cùng vùng biển lân cận, theo Công ước LHQ về Luật Biển. Bên kia, đại diện là Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), gồm có Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam – những nước này đưa ra yêu sách khiêm tốn hơn, nhưng cũng mâu thuẫn, chồng lấn lên yêu sách của nhau và của Trung Quốc.

Lần leo thang xung đột gần đây nhất bắt đầu từ vụ đối đầu giữa Trung Quốc và Philippines quanh khu vực bãi cạn Scarborough. Cũng đã có những lời mời thầu quốc tế mâu thuẫn nhau của Trung Quốc và Việt Nam, mời chào thăm dò dầu khí trong khu vực Biển Đông mà hai nước đang tranh chấp. Các nỗ lực của Philippines và Việt Nam nhằm giành được sự ủng hộ của đối tác ASEAN tại cuộc họp bộ trưởng ngoại giao gần đây, đã đưa đến việc ASEAN không thể ra được thông cáo chung – lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của tổ chức này có chuyện như vậy.

Campuchia, Chủ tịch ASEAN năm 2012, từ chối nhắc đến tranh chấp trên Biển Đông, rõ ràng đã cho thấy sự tác động không lấy gì làm tế nhị lắm của Trung Quốc. Nhưng nhờ có hoạt động ngoại giao con thoi của vị ngoại trưởng mạnh mẽ của ASEAN, ông Marty Natalegawa, ASEAN đã đạt được một “lập trường chung” để giữ thể diện. Lập trường này nhắc lại sáu nguyên tắc tuân theo tuyên bố về cách ứng xử và vào Luật Biển. Tuy nhiên, tuyên bố chung của ASEAN thì vẫn chưa được đưa ra.

Sau khi Việt Nam phê chuẩn luật biển vào tháng 6-2012, tuyên bố chủ quyền và quyền tài phán đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên Biển Đông, Trung Quốc đã phản đối cực lực và đã khiến cho tình hình căng thẳng thêm bằng việc tuyên bố các bước để chủ động quản lý các hòn đảo tranh chấp, bãi ngầm Macclesfield (Trung Quốc gọi là quần đảo Trung Sa – ND), cũng như toàn vùng biển 772.000 dặm vuông (tương đương gần 2 triệu km vuông – ND) nằm trong “đường 9 đoạn”. Tam Sa – hòn đảo nhỏ diện tích 1,5 km2 nằm ở vùng tranh cãi trên Biển Đông – đã vừa được tuyên bố là một thành phố có chính quyền địa phương chịu trách nhiệm cai quản khu vực. Đại biểu quốc hội cùng một viên thị trưởng đã được bầu chọn, và chính quyền Trung Hoa công bố kế hoạch đặt một đơn vị đồn trú của Quân đội Giải phóng Nhân Dân (PLA) ở trên đảo này để giám sát – và nếu cần thì bảo vệ – việc thực thi chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực.

Các diễn biến đó chỉ làm căng thẳng thêm leo thang, không phục vụ cho những lợi ích chiến lược lớn hơn của Trung Quốc, cũng chẳng có ích gì cho các nước Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền.
Những hành động gần đây của Trung Quốc trên Biển Đông chắc chắn sẽ phá hoại một cách nghiêm trọng khả năng họ gây ảnh hưởng lên khu vực và thế giới trong những vấn đề quan trọng hơn. Ví dụ, sức mạnh kinh tế của Trung Quốc phụ thuộc một phần vào mức độ hội nhập kinh tế của họ với Đông Nam Á, góp phần tạo ra những mạng lưới sản xuất mang tính cạnh tranh toàn cầu. Sự hội nhập đó phụ thuộc vào việc xây dựng được quan hệ song phương hữu hảo với các nước láng giềng, và giờ đây nó đang bị phá hoại.

Trung Quốc cũng đã có vài người bạn trong khu vực. Trong một diễn văn đọc hồi năm ngoái, Phó Thủ tướng Lý Khắc Cường (Li Keqiang) – người mà theo dự kiến sẽ trở thành thủ tướng tiếp theo của Trung Quốc – tuyên bố, Trung Quốc muốn đảm bảo với thế giới rằng họ có ý định hợp tác với các nước khác để làm dịu bớt sự trỗi dậy như một siêu cường toàn cầu của họ. Quan điểm về sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc vốn là hòn đá tảng trong chiến lược đối ngoại của Bắc Kinh. Thật không may là các nước láng giềng Đông Nam Á lại thấy hành động của Trung Quốc chẳng đi đôi với những luận điệu hoa mỹ của họ.

Bản thân Việt Nam và Phlippines, bằng những hành động khiêu khích của chính họ, cũng không phải là hoàn toàn vô tội trong hàng loạt sự cố gần đây. Tuy nhiên, cũng không cần phải nhắc họ rằng, đối đầu với Trung Quốc chẳng có lợi gì cho họ cũng như cho phần còn lại của Đông Nam Á.
Đà phát triển kinh tế đầy ấn tượng của khu vực trong hai thập niên qua đã hưởng lợi rất lớn từ cỗ máy tăng trưởng Trung Quốc. Những khoản đầu tư lớn đã được rót vào mạng lưới sản xuất đang phát triển, và quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, nếu được duy trì, còn hứa hẹn nhiều nữa. Quan hệ xấu đi có thể gây rủi ro. Quan trọng hơn, các nước Đông Nam Á đã nhận ra sự nguy hiểm của bất kỳ cuộc xung đột có vũ trang nào với Trung Quốc – xung đột ấy có thể nhân rộng nếu Mỹ bị kéo vào cuộc chiến.

Cuối cùng, rủi ro xung đột ngày càng gia tăng không hề có lợi cho cộng đồng quốc tế, đặc biệt là cho những nước phụ thuộc vào hoạt động hàng hải bình yên trên Biển Đông, và những nước nằm trong Vành đai Thái Bình Dương. Nền kinh tế toàn cầu vốn dĩ đã phải chịu đựng vô vàn khó khăn, sẽ không thể chịu thêm một sự bất định nữa.

Tất nhiên, chi phí tiềm ẩn của xung đột, đối với khu vực và thế giới, vượt xa bất kỳ lợi ích kinh tế tiềm năng nào có thể có được nhờ đáy biển – phần lớn các lợi ích này chưa bao giờ được xác định rõ. Không còn là chuyện băng cháy và nguồn cá, tranh chấp Biển Đông giờ đây ngày càng bị lôi kéo bởi ý kiến công luận ở mỗi nước liên quan, mà công luận thì lại bị kích động bởi những vận động hành lang của phe quân sự và tình cảm dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ.

Lùi khỏi miệng vực sẽ là có lợi cho tất cả mọi người. Nhưng việc này phải được thực hiện theo một cách tạo ra sự tin cậy lẫn nhau. Sự leo thang kiểu ăn miếng trả miếng hiện nay giữa Trung Quốc và hai quốc gia ASEAN có yêu sách chủ quyền khác – Việt Nam và  Phlippines – cần phải chấm dứt, dù rất khó, và thậm chí cần thay đổi hoàn toàn. Cần đi kèm với một loạt hành động được “biên đạo” cẩn thận để dần dần tháo gỡ các lập trường hiện nay, theo một cách có thể thỏa mãn các cử tri của mỗi nước.

Với thành công gần đây của mình trong hoạt động ngoại giao con thoi, ngoại trưởng Natalegawa của Indonesia rất có thể sẽ là người luồn kim (nguyên văn: thread the needle, nghĩa bóng là tìm đường lách qua các quan điểm đối kháng, đối lập nhau). Có lẽ ông sẽ được một nhóm nhỏ những chính khách có uy tín quốc tế hỗ trợ, để ông thực hiện ngoại giao con thoi nhằm làm trung gian hòa giải ba nước chính có yêu sách chủ quyền: Trung Quốc, Philippines và Việt Nam. Ủy nhiệm thư rất được ca ngợi gần đây của ông, với tư cách nhà ngoại giao, đã khiến ông giành được sự tin cậy của cả hai bên. Hơn thế nữa, cách tiếp nhận như của ông Natalegawa có thể làm thỏa mãn Bắc Kinh, vốn dĩ rất miễn cưỡng, không muốn phải đàm phán đa phương về vấn đề Biển Đông trong khi vẫn đang phải sắp xếp một cuộc thay đổi nhân sự tập thể (nguyên văn: a collective stand-down, cuộc rút lui tập thể khỏi vị trí lãnh đạo, chỉ sự thay đổi nhân sự lãnh đạo sau Đại hội Đảng ở Trung Quốc – ND).

Nhưng đừng lầm. Năng lực lãnh đạo và lòng can đảm thực sự cần phải đến từ chính các nước có yêu sách chủ quyền. Trong tình hình có nhiều lợi ích lớn liên quan đến khu vực, chúng ta hãy hy vọng rằng nhà lãnh đạo như thế sắp xuất hiện.

Tác giả: Vikram Nehru là nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, thuộc Quỹ Hòa bình Quốc tế Carnegie (Carnegie Endowment for International Peace).

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
http://anhbasam.wordpress.com/2012/08/27/tien-trinh-xung-dot-tren-bien-dong/#more-73248

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét