Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




BẠCH HÓA CÔNG ĐIỆN MẬT TỪ ĐẠI SỨ MỸ VỀ VIỆC HOA KỲ NÊN "PHỦI TAY" TRONG TRẬN CHIẾN HOÀNG SA NĂM 1974

25-04-2016 
trích "Một Tài Liệu 42 Năm Cũ"


Tài  liệu cũ đã 42 năm vừa được khui ra là công điện của đại sứ Mỹ Graham Martin tại Việt Nam, gửi ông Brent Scowcroft vào lúc 9 giờ 25 ngày 21 tháng Giêng 1974.  Brent Scowcroft  là một tướng lãnh không quân hồi hưu, và vào thời điểm nhận công điện này ông là Cố Vấn An Ninh Quốc Gia trong chính phủ  của tổng thống Gerald Ford.

Tổng Thống Gerald R. Ford chủ trì cuộc họp 
Hội đồng An ninh Quốc gia vào ngày 28 tháng tư năm 1975, để thảo luận về Việt Nam.

Từ bên trái: William Colby (CIA Dir), Robert Ingersoll (Phó Ngoại trưởng), Henry Kissinger (Bộ Trưởng Ngoại Giao), Tổng thống Ford, James Schlesinger (Bộ Trưởng Quốc Phòng), William Clements (Phó Bộ Trưởng Quốc phòng.), Phó Tổng Thống Nelson Rockefeller, Tướng George S. Brown (Chủ tịch, JCS). NGuồn (Gerald R.  Ford Library, David Hume Kennerly)   

Dưới đây là bản dịch bức công điện, những chữ viết nghiêng trong ngoặc đơn, do người dịch thêm vào để bạn đọc dễ hiểu hơn.



--------------------
Có thể ông nên chuyển cho ông Henry (Kissinger)  biết những nhận xét dưới đây để ông ta quyết định về cách tiếp cận với PRC (People’s Republic of China-Trung Cộng ).

Reftel (Reference Telegram-sở điều nghiên điện tín) cung cấp lời giải đáp cho nhiều câu hỏi được nêu lên. Đọc lại quân sử Hải Quân cũng là điều thích thú.

Cuối cùng thái độ khôn ngoan vẫn là hành động - phải làm một điều gì đó, chứ đừng ngồi chịu trận. Nhu cầu cần hành động  lại trở thành cần thiết hơn vì sự có mặt của tổng thống Thiệu tại Đà Nẵng, và vì cái thế của ông ta không thể tỏ ra thụ động  trước  diễn biến được đơn giản diễn dịch là hành động xâm lăng trắng trợn.(hành động của Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa)

Nếu ông Thiệu đang ở Sài Gòn, và nếu tôi biết việc ông ta muốn làm, có thể tôi đã thuyết phục ông ta hành động hợp lý hơn. Thí dụ: SÁNG NAY TÔI NGHE NÓI ÔNG TA RA LỆNH CHO KHÔNG QUÂN VIỆT NAM  OANH TẠC LỰC LƯỢNG  TRUNG QUỐC TẠI ĐẢO HOÀNG SA. VIỆC ĐÓ ĐÃ ĐƯỢC NGĂN CHẶN.

Vấn đề cần đặt ra là tình hình này sẽ đưa chúng ta tới đâu. Chúng ta nên khuyến cáo chính phủ Việt Nam làm gì về đồn binh  Nam Yết  của họ. Bảo họ rút quân à? Hay khuyên họ tăng cường lực lượng? Hay khuyên họ ngồi đó, chờ xem?

Tin Hải Quân báo trước việc chiến hạm (Trung Cộng) được gửi tới Nam Yết  hôm 15. Nhiều bản nghiên cứu địa chất đang được tiết lộ, cho biết có thể có một khối lượng dầu khổng lồ nằm dưới lòng biển Nam Hải; nếu không có tiềm năng dầu hoả  thì vùng biển này đã chẳng có giá trị gì.

Do đó mà cuộc tranh chấp càng gay go hơn. Tôi nghĩ chúng ta không thể trực tiếp liên can vào cuộc tranh chấp chủ quyền giữa những nước đã từng là đồng minh của chúng ta như  Việt Nam Cộng Hoà, Đài Loan và Phi Luật Tân; hoặc giữa những nước này  với PRC (Trung Cộng) nơi chúng ta đang xây dựng một tương quan sắp tới.

Tuy nhiên, có thể chúng ta cũng không cần gây thương tổn cho bất cứ nước nào bằng cách êm thắm lui vào hậu trường -lập trường cố hữu của chúng ta vốn vẫn chống việc dùng sức mạnh để giải quyết những cuộc tranh chấp lãnh thổ; và một lập trường cố hữu khác là nhờ ICRC (International Committee of the Red Cross-Hồng Thập Tự Quốc Tế) giúp thực hiện việc  trao đổi thương binh và tử sĩ.

Nếu PRC (Trung Cộng) thuận theo lời yêu cầu của Việt Nam trao trả những thương binh, tử sĩ dưới sự giám sát của ICRC, thì đây sẽ là một lợi khí cho chúng ta để đòi DRV (Democratic Republic of Vietnam -Việt Cộng) một chính sách trao đổi tù binh rộng rãi hơn, điều mà họ vẫn đắp mô gây trở ngại trong những cuộc hội đàm TPJMC (Two-Party Joint Military Commission - Uỷ Ban Quân Sự Hai Bên). Ngoài ra, nếu Trung Cộng -dưới danh nghĩa  “thương binh” mà trao trả toàn bộ tù binh như một món quà Tết, thì chúng ta lại có một lợi khí mạnh hơn để dùng với  Bắc Việt.

Tôi vừa nhận được bản tin FBIS (Foreign Broadcast Information Service-tin hải ngoại) của NCNA (New China News Agency-hãng thông tấn  Tân Hoa Xã), viết là, “những người phía bên kia bị bắt  trong cuộc chiến tranh tự vệ này sẽ được trả về nước vào thời điểm thuận tiện.” Thời điểm đó  -đối với cả người Việt lẫn người Tầu- là ngày Tết.

Dĩ nhiên, chúng ta không biết những người bị bắt còn trên đảo Hoàng Sa hay họ đã bị đưa về đảo Hải Nam hoặc vào Trung Quốc lục địa; nếu họ còn trên đảo Hoàng Sa thì việc đưa họ trở về Việt Nam sẽ dễ hơn.

Chuyện về anh Kosh hơi phức tạp, vì hãng thông tấn UPI Sài Gòn biết chuyện này qua nguồn tin Việt Nam, họ chỉ biết anh là “một người Mỹ làm việc tại đài khí tượng Hoàng Sa, và coi như đã bị Trung Cộng bắt.” Chỉ tóm tắt có ngần đó; họ không biết đến cả tên anh Kosh và không biết Kosh là một nhân viên dân sự của DAO (Defense Attache Office-Văn Phòng Tuỳ Viên Quân Sự).  UPI có hỏi ý chúng tôi, và chúng tôi không yêu cầu họ bỏ hay khoan phổ biến tin về Kosh, nhưng chỉ nói là nếu họ hoãn được 24 tiếng đồng hồ thì việc trả tự do cho Kosh sẽ dễ dàng hơn. Văn  phòng UPI Sài Gòn, chuyển lời yêu cầu này cho Bill Landry,  người đặc trách tin quốc ngoại tại văn phòng UPI Nữu Ước. Không biết anh này quyết định như thế nào.

Về mặt ngoại giao, chúng tôi dựa vào USUN (US Mission to the UN-Phái Đoàn Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc) để khuyến cáo chính phủ Việt Nam chỉ nên đơn giản khiếu nại với Hội Đồng Bảo An  Liên Hiệp Quốc, nhưng đừng đòi hỏi điều trần và cũng đừng đòi biểu quyết. Thiệu muốn gửi thư cho tổng thống Nixon yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp và lên án Trung Cộng.

Tôi đã bảo  ông Thiệu đừng gửi  lá thư đó, vì thư ông viết  sẽ bị trả lời không thuận lợi, tôi còn cho ổng biết  chính bản thân tôi, tôi cũng sẽ khuyến cáo Nixon trả lời từ khước. Chúng tôi còn khuyến cáo ngoại trưởng (Vương Văn) Bắc là chính phủ Việt Nam nên đưa vấn đề ra trước Toà Án Quốc Tế, và  đặt nhẹ vấn đề tại SEATO  (Southeast Asia Treaty Organization-Tổ Chức Liên Phòng Đông Nam Á).

Có thể tình hình này đem lại nhiều điều tốt. Chắc chắn tôi có thể gây ảnh hưởng mạnh hơn trong việc ngăn cản Thiệu không hành động thiếu cân nhắc, và cởi mở hơn với Lê Đức Thọ trong việc trao đổi tù binh, và việc chính phủ Việt Nam đề nghị  hạ thấp cường độ chiến tranh, bằng cách  giảm bớt  việc sử dụng súng cối, hoả tiễn, mìn, và mọi hình thức sát hại thường dân vô tội. Và, trên tất cả mọi việc,  việc thắt chặt hệ thống chỉ huy và kiểm soát quân sự, rồi  nới rộng quyền cho Khiêm  phối hợp nội các dân sự là cần thiết hơn cả.

Cân nhắc lại, chúng ta phải tìm cách lợi dụng việc vừa xẩy ra, dù việc đó đáng tiếc; lợi dụng bằng cách tiến xa hơn trong những  mục tiêu chung của Hoa Kỳ. Không tha thiết và rất vô tư, tôi tin tưởng là chúng ta nên âm thầm đến với Trung Cộng theo lộ trình tôi đề nghị. Tôi không đề nghị việc Hoa Kỳ đòi trả Hoàng Sa cho Việt Nam. Trung Cộng đã  chiếm được, chắc chắn họ sẽ không trả lại.

Chúng ta chỉ yêu cầu họ đáp ứng lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam - hoàn trả cả thương binh lẫn tử sĩ lại cho Việt Nam, và thêm vào nữa, Trung Cộng có thể nhân ngày Tết thực hiện cuộc trao trả đó. Tôi nghĩ PRC (Trung Cộng) sẽ hiểu ngầm được là chúng ta thầm lặng chấp nhận việc họ chiếm  Hoàng Sa  như một “việc đã rồi.”

Hành động như vậy, chúng ta có thể giữ lại Trường Sa , và khối lượng dầu hoả quanh quần đảo này cho chính phủ Việt Nam.

Tôi tin là chính phủ Việt Nam sẽ  thất bại  trước cuộc hành quân mà  Trung Cộng  đã  chuẩn bị kỹ lưỡng.

Nhìn kỹ lại, tôi thấy chúng ta sẽ thực sự hưởng thụ cùng với  Trung Cộng, trong lúc chúng ta vẫn có vẻ  giúp Việt Nam thực hiện hành động hợp lý duy nhất là khiếu nại.

Và, nhìn từ khoảng cách  này, tôi không thấy một nguy hiểm nào có thể xẩy ra vì chúng ta hành động như tôi đề nghị.


Trí Nhân Media

-------------------------------------------



TÀI LIỆU LIÊN HỆ:

Archives Unbound: Ambassador Graham Martin and the Saigon Embassy’s Back Channel Communication Files, 1963-1975

Ambassador Graham Martin and the Saigon Embassy’s Back Channel Communication Files, 1963-1975

Summary

State Department telegrams and White House back channel messages between U.S. ambassadors in Saigon and White House national security advisers, talking points for meetings with South Vietnamese officials, intelligence reports, drafts of peace agreements, and military status reports offer a wealth of information on the details and workings between the American ambassador in South Vietnam and U.S. policy-makers in Washington.

An intuitive platform makes it all cross-searchable by subject or collection.
Date Range: 1963-1975
Content: 6,445 pages
Source Library: Gerald R. Ford Presidential Library

Description

This collection offers a wealth of information on the details and workings between the American ambassador in South Vietnam and U.S. policy-makers in Washington. The secret back channel communications in this collection reveal the complexity of waging a war and the attempt to build a democratic government in South Vietnam.  The documents in this collection provide a chronicle of the issues, concerns, information, analyses, discussions, and debates surrounding policy-making on the Vietnam War, predominantly within Nixon’s inner circle of national security staff, including national security advisor Henry A. Kissinger. Ambassador Graham Martin and the Saigon Embassy’s Back Channel Communication Files, 1963-1975 represents an important and unique addition to newly available historical documentation and scholarship and provides a deeper understanding of the later years of the war in South Vietnam.

The bulk of the materials in this collection are “back channel” cables between the U.S. ambassadors in Saigon (Henry Cabot Lodge, Ellsworth Bunker, and Graham Martin successively) and the U.S. President’s national security advisers (McGeorge Bundy, Henry Kissinger, and Brent Scowcroft successively) regarding the situation in South Vietnam or the peace negotiations.  In addition, documents include:

* State Department cables, usually between the Secretary of State and the U.S. ambassador in Saigon
* Talking points prepared for meetings between the ambassador and South Vietnamese officials
* Meeting reports and memoranda
* Speech drafts and proposed agreements prepared by both sides
* Military situation reports
* Intelligence reports

The largest segment of this collection consists of communications between Ambassador Ellsworth Bunker and National Security Adviser Henry Kissinger during the period of the Paris Peace Talks.  They include:

1. Kissinger relaying to Bunker details of his secret talks with the North Vietnamese in Paris, and later the formal Paris peace negotiations, including drafts of proposed agreements and negotiations over signing procedures

2. Bunker’s prepared talking points for meetings with President Thieu of South Vietnam to relay that information, and his reporting to Kissinger of Thieu’s reaction to the information

3. “Think pieces” by both Bunker and Kissinger on the situation in Vietnam and the strategy for handling President Thieu

4. Post-ceasefire diplomatic maneuvering, implementation of the agreements, and handling of allegations of ceasefire violations

Ambassador Graham Martin and the Saigon Embassy’s Back Channel Communication Files, 1963-1975 consists of wide range of primary source materials essential to research in Asian and Southeast Asian studies, diplomatic history, military history, global studies, post-colonial studies, political science and more.

Primary Source Media: Gale Digital Collection




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét