Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




11. BỐI CẢNH TRƯỚC THÁNG 4-1975 - QUỐC VƯƠNG FAISAL MUỐN VIỆN TRỢ CHO VIỆT NAM CỘNG HÒA

Trần Đông Phong

TỪ WASHINGTON

Vào cuối tháng 3 năm 1975, sau khi những Tỉnh thuộc Vùng I và II lần lượt bị cộng sản Bắc Việt thôn tính, trong khi tình hình ngày càng trở nên nguy kịch và đầy tuyệt vọng thì theo Đại Tướng Cao Văn Viên “với tất cả biến động nguy ngập xảy ra, Miền Nam vẫn còn trông đợi, hy vọng một phép nhiệm mầu nào đó sẽ xảy ra để có thể cứu vãn được tình hình

Người Miền Nam và nhất là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó dường như ai nấy cũng đều đặt hết hy vọng vào một phép lạ nào đó, vào một sự thay đổi chính sách nào đó hay vào những sự hứa hẹn hoặc cam kết nào đó từ phía Hoa Kỳ từ phía Hoa Thịnh Đốn.

Trước việc Việt Nam Cộng Hòa bị mất 4 Tỉnh Phước Long, Ban Mê Thuột, Pleiku và Kontum rồi ngay đến Vùng I Chiến Thuật và những Tỉnh ở miền Trung sau đó, Hoa Kỳ không hề có một sự phản đối nào. Ngoại Trưởng Kissinger đang bù đầu về vấn đề Trung Đông, Tổng Thống Gerald Ford họp với Bộ Tham Mưu của ông để nghiên cứu xem Tổng Thống Hoa Kỳ có thể làm được những điều gì có thể giúp cho Việt Nam Cộng Hòa mà không vi phạm Đạo Luật War Powers Act. Tòa Bạch Ốc được Bộ Tham Mưu này phúc trình cho biết rằng Hoa Kỳ không thể làm được bất cứ điều gì để can thiệp tại Việt Nam, không thể dùng phi cơ của Không Lực để can thiệp nhằm yểm trợ và cứu một số Quân Đội của Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, trong Đạo Luật War Powers Act lại có những “khe hở” (loopholes) và nhờ đó mà chính phủ Hoa Kỳ có thể được phép thuê mướn một số thương thuyền và phi cơ dân sự để di chuyển Quân Đội và chiến cụ cho Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi những vùng nguy hiểm cũng như là cứu người tỵ nạn ở ngoài hải phận quốc tế mà thôi.

Đối với tình hình Việt Nam vào tháng 3 năm 1975, không phải là Washington không biết gì về tình hình đang nguy ngập, một số tài liệu được giải mật sau này cho thấy ngược lại là đằng khác.

Những Diễn Tiến Tồi Tệ Ở Việt Nam

Hai ngày sau khi cộng sản Bắc Việt mở cuộc tấn công vào Ban Mê Thuột, vào ngày 12 tháng 3 năm 1975, Ngoại Trưởng Kissinger đã nhận được một bản phúc trình đặc biệt về Việt Nam do Hội Đồng An Ninh Quốc Gia soạn thảo. Bản phúc trình này mang số 1509 của National Security Council với đề mục “Ominous Developments in Vietnam” (Những Diễn Tiến Tồi Tệ Ở Việt Nam) do ông William L. Stearman ký tên đã phúc trình với Ngoại Trưởng Kissinger một số điểm như sau:

“Một số diễn tiến quân sự và chính trị quan trọng ở Việt Nam gần đây đã cho thấy một điềm rất xấu về chiến lựơc và ý đồ của Bắc Việt trong những tháng sắp tới. Những gia tăng về các hoạt động quân sự của Bắc Việt từ ngày 10 tháng 3 năm 1975 đã chứng tỏ rằng quan điểm nầy là đúng.

Những diễn tiến mới này là:

- Vào tháng 12 năm 1974 Đại hội khoáng đại Kỳ Thứ 23 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam đã thông qua một bản nghị quyết mang tên là Nghị Quyết số 23. Nghị quyết này có thể là quyết định về một chính sách mới đối với Miền Nam.

- Vào cuối tháng hai và đầu tháng 3 năm 1975, có nhiều phái đoàn cao cấp của Liên Xô và Trung Cộng đã lần lượt đến viếng thăm Hà Nội. Thứ Trưởng Ngoại Giao Liên Xô là Nicolay Firyubin là người cầm đầu phái đoàn Xô Viết. Sự hiện diện của phái đoàn Trung Cộng cùng với phái đoàn Fiyubin tại Hà Nội có thể là hậu quả của một sự thay đổi về chính sách rất quan trọng của Bắc Việt đối với cuộc chiến tranh tại Miền Nam Việt Nam.

Các nguồn tin tình báo viễn thông (communications in telligence) cho biết kể từ ngày 10 tháng 3 năm 1975, dường như Bắc Việt đã cho phối trí một phần lớn lực lượng mà danh tính cũng như là câp số của đơn vị này chúng ta chưa được biết. Đó là chưa kể đến sự xâm nhập của sư đoàn 341 của Bắc Việt từ Quảng Bình ở Bắc Việt tiến qua vùng Phi Quân Sự vào Tỉnh Quảng Trị và Sư Đoàn 968 từ Lào vào vùng Cao Nguyên Trung Phần.

Những đơn vị tiền phương của Trung Ương Cục Miền Nam (COSVN) đã gia tăng các liên lạc vô tuyến và ít nhất là đã liên lạc thường xuyên với 3 sư đoàn cùng một số đơn vị biệt lập trong vùng Tây Ninh-Mỏ Vẹt. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương này có lẽ sẽ trở thành một Bộ Tham Mưu cao cấp trong việc chỉ huy và phối hợp các tấn công trong Vùng III Chiến Thuật của Việt Nam Cộng Hòa. Sự hiện diện của những dợn vị nói trên là bằng chứng hiển nhiên về dự định tấn công với lực lượng gồm nhiều trung đoàn của cộng sản trong vùng này.

- Mức độ xâm nhập của Bắc Việt trong mùa khô năm nay đã gia tăng gấp đôi so với mức xâm nhập nầy trong mùa khô 1973-1974. Nếu mức xâm nhập nầy được tiếp tục với mức độ như hiện nay thì sự xâm nhập vào năm nay sẽ tương đương với mức độ cao nhất hồi năm 1968. (Năm 1975: 125.900 người, năm 1968: 130.300 người).

- Một chương trình tổng động viên đang được thực hiện tại Bắc Việt và chương trình huấn luyện tân binh được rút ngắn từ 4 đến 6 tháng chỉ còn lại khoảng 1 tháng mà thôi. Chương trình huấn luyện rút ngắn này đã giúp cho quân đội Bắc Việt có thể động viên, huấn luyện và gửi vào Miền Nam chỉ trong vòng 1 tháng. Các tân binh được huấn luyện vào tháng Hai thì đến tháng Ba đã lên đường xâm nhập vào Nam Việt Nam.

- Quân đội cộng sản Bắc Việt tiếp tục chuyên chở một số lượng vô cùng lớn lao về vũ khí và đạn dược vào vùng cán chảo Bắc Việt (Vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình) trong số đó có rất nhiều đại bác 130 ly. Những vũ khí này sẽ được gửi đi đâu thì chưa được biết nhưng mà gần như chắc chắn rằng những vũ khí đó đang trên đường được đưa vào Miền Nam.

- Các chiến đấu cơ phản lực MIG đã được di chuyển trở lại về vùng phía Nam của Bắc Việt. Các loại chiến đấu cơ phản lực MIG-17 hiện đang được bố trí tại Phi Trường Đồng Hới và các loại MIG-21 tối tân hơn thì được bổ trí tại Vinh. Các lực lượng phi cơ MIG nầy về bản chất thì chỉ được sử dụng với mục đích tự vệ, tuy nhiên loại MIG-17 thì có thể được dùng để tấn công các lực lượng bộ binh trong khi loại MIG-21 thì có thể được dùng để bảo vệ trên không.

- Các binh sĩ của cộng sản Bắc Việt đã được học tập một cách rất tích cực mà trọng tâm của sự học tập nầy là nhắm vào mục tiêu chuẩn bị tinh thần cho việc chiến đấu trong năm 1975 sẽ vô cùng nguy hiểm. Những khẩu hiệu mà đảng cộng sản đang sử dụng để động viên tinh thần binh sĩ là:

- Tái diễn 1968.
- Tấn công như năm 1972.
- Đạt cho đựợc thắng lợi như là Điện Biên Phủ

Tóm lại, nếu tổng kết tất cả những diễn tiến nói trên thì đó là những dấu hiệu cho thấy cuộc tổng tấn công vào mùa Xuân năm 1975 của cộng sản Bắc việt là cực kỳ nghiêm trọng và có lẽ nhắm vào mục đích làm thay đổi hoàn toàn cán cân lực lượng tại Miền Nam Việt Nam. Nhiều nhà phân tích tình báo cho rằng cuộc tổng tấn công này là những bước mở màn cho những sự thương thuyết nhằm thực thi Hiệp Định Paris theo những điều kiện mà cộng sản Bắc Việt đưa ra.

Có lẽ chiến lược của cộng sản Bắc Việt là chiếm được nhiều lãnh thổ trong cuộc tổng tấn công mùa Xuân và mùa Hè năm 1975 rồi sẽ đề nghị một cuộc ngưng bắn trước khi mà Việt Nam Cộng Hòa có đủ thì giờ để tái phối trí những lực lượng đã mất. Lúc đó thì sẽ có những áp lực rất mạnh từ phía Quốc Hội Hoa Kỳ đòi phải chấp nhận những điều kiện của Bắc Việt đưa ra tại vì phía Quốc Hội sẽ xem như đó là một cơ hội nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh và giảm thiểu viện trợ quân sự của Hoa Kỳ. Gần như chắc chắn rằng Miền Nam Việt Nam sẽ không sẵn sàng chấp nhận những đề nghị của Bắc Việt, tuy nhiên Hà Nội sẽ làm áp lực với chúng ta qua Quốc Hội Hoa Kỳ để nhằm ép buộc Tổng Thống Thiệu phải nhượng bộ.

Do đó, rất có thể chúng ta sẽ phải đương đầu với một tình thế mà có rất nhiều áp lực nặng nề đối với ngành Hành Pháp để buộc Tổng Thống Gerald Ford phải chấp nhận những đề nghị của Hà Nội. Có lẽ những đề nghị này sẽ nhắm vào việc thành lập một Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc với nhiều quyền hạn như là một chính phủ và sẽ cho phép cộng sản được hoàn toàn can thiệp vào số dân chúng đang sống trong vùng do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát. [National Security Council: Ominous Developments in Vietnam, March 12.1975. Hồ Sơ Tối Mật được giải mật ngày 6 tháng 1 năm 2000. Hồ sơ này đang được lưu trữ tại Thư Viện Tổng Thống Gerald Ford, Folder-7501-509.]

Như vậy thì từ tháng 3 năm 1975, trước khi cộng sản Bắc Việt khởi động các cuộc tổng tấn công tại miền Cao Nguyên và vùng Bắc Trung Phần, chính phủ của Tổng Thống Ford đã biết rằng tình hình Việt Nam đã trở thành vô vọng vì Hành Pháp Hoa Kỳ đã bị bó tay bởi Đạo Luật War Powers Act và Quốc Hội thì đã dứt khoát không cứu xét đề nghị viện trợ quân sự bổ túc cho Việt Nam Cộng Hòa nữa. Tuy nhiên lúc đó lại có một tia sáng hy vọng mong manh đối với vấn đề trợ giúp cho Miền Nam Việt Nam phát xuất từ vùng sa mạc Trung Đông.

QUỐC VƯƠNG FAISAL
Muốn Viện Trợ Cho Việt Nam Cộng Hòa

Theo Frank Snepp thì trong những cuộc thương thuyết con thoi giữa các nước Trung Đông nhằm giải quyết hòa bình giữa các nước Ả Rập và Do Thái, vào ngày 19 tháng 3 năm 1975, Ngoại Trưởng Henry Kissinger ghé thăm nước Ả Rập Saudi (Saudi Arabia,) quốc gia sản xuất dầu hỏa hàng đầu của thế giới. Ngày 23 tháng 3 trước khi rời Riyad, Thủ Đô Saudi Arabia, Ngoại Trưởng Kissinger vô cùng ngạc nhiên khi Quốc Vương Faisal, vốn là một người rất mến phục và ủng hộ Tiến Sĩ Kissinger, đã nói riêng với ông là Quốc Vương muốn dành cho Ngoại Trưởng Hoa Kỳ một ân huệ cá nhân.

Quốc Vương Faisal nói rằng ông rất kính phục lòng can đảm của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến đấu để bảo vệ tự do cho chính họ. Vua Faisal nói rằng vì cảm tình đối với nhân dân Miền Nam Việt Nam và một phần cũng vì cảm tình với Ngoại Trưởng Kissinger, nhà vua và chính phủ Ả-Rập Saudi sẵn sàng bảo đảm cho việc viện trợ cho vay một số tài khoản “vĩ đại” (a huge grant-in-aid) cho chính phủ Saigon nhằm bù đắp cho việc viện trợ của Hoa Kỳ bị cắt giảm. Ngoại Trưởng Kissinger ngạc nhiên và vui mừng cho đến độ sững sờ vì đây là một “phép lạ trên sân khấu” (deus ex machina) mà ông hằng mong đợi sẽ xảy ra để giúp cho ông ta thực hiện được chiến lược về ngoại giao của ông tại Đông Dương.

Nhưng bất hạnh thay, đề nghị viện trợ của Ả Rập Saudi cũng trở thành vắn số và phù du như những môn thuốc giải độc khác trước đây nhằm chữa chạy cho cuộc chiến tranh Đông Dương trong gần 30 năm. Chỉ có ba ngày sau khi đưa ra đề nghị này với Kissinger, Quốc Vương Faisal lại bị một người cháu giết chết vì ganh tức và hy vọng viện trợ cho Việt Nam cũng bị chôn vùi cùng với cái chết của Vua Faisal nước Ả Rập Saudi.

Frank Snepp cũng cho biết thêm rằng trong khi tiếp xúc với Ngoại Trưởng Kissinger mấy tuần trước đó, chính Đại Sứ Martin đã đưa ra ý kiến nên tìm cách vận động yêu cầu xin viện trợ từ nước Ả Rập Saudi. Tuy nhiên sau cùng thì chính Quốc Vương Faisal là người đã xúc tiến dự án đề nghị này. Ngay cả sau khi Quốc Vương Faisal từ trần, Đại Sứ Martin vẫn còn thúc đẩy Ngoại Trưởng Kissinger tiếp tục vận động cho kế hoạch viện trợ này nhưng chẳng có đi đến đâu vì người kế vị còn phải chú trọng đến những vấn đề khác. Frank Snepp: Sách đã dẫn. Trang 216.

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng Trưởng Phát Triển trong những năm cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa cũng có cho biết thêm về chuyện này như sau:

“Cuộc viếng thăm của phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ vào cuối tháng 2 năm 1975 đã cho thấy sự thật hiển nhiên là sự viện trợ của Hoa Kỳ đang đỗ vỡ và sau đó lại còn có thêm nhiều diềm xấu tiếp diễn: Những thất bại tại Cao Nguyên, sự thất thủ của các Tỉnh Miền Trung cùng Đà Nẵng và việc Hoa Kỳ cúp viện trợ là những dấu hiệu tồi tệ nhất.

Thêm vào đó lại còn có vụ Quốc Vương Saud al Faisal của nước Ả Rập Saudi bị ám sát ngày 25 tháng 3 năm 1975. Vua Faisal đã bày tỏ cảm tình và niềm ngưỡng phục về công cuộc chiến đấu chống cộng sản của nhân dân Miền Nam Việt Nam và ông đã đề nghị trợ giúp cho Việt Nam. Vào đầu năm 1975, Quốc Vương Faisal đã chấp thuận trên nguyên tắc sẽ cho Việt Nam vay một số ngân khoản “nhiều trăm triệu” Mỹ kim. Số tiền này sẽ được sử dụng nhằm đẩy mạnh nền kinh tế của Miền Nam Việt Nam và đồng thời cho phép Tổng Thống Thiệu mua nhiên liệu và vũ khí đạn dược của bất cứ quốc gia nào muốn bán cho Việt Nam. Một giải pháp khác được đề nghị cho kế hoạch cho vay này của Quốc Vương Faisal là Ả Rập Saudi sẽ bảo đảm cho việc Hoa Kỳ viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa. Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng nghiêng về phía bảo đảm cho vay hơn là vì điều này sẽ loại trừ được những vấn đề khó khăn có thể xảy ra nếu phải mua những vũ khí chiến cụ của Mỹ ở ngoài thị trường Hoa Kỳ. Sự thật là toàn bộ guồng máy những vũ khí trong chiến tranh Việt Nam đều được sản xuất tại Hoa Kỳ (made in USA) do dó mà không thể nào mua sắm vũ khí đạn dược từ một nước ngoại quốc nào khác.

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng nhớ lại rằng “Có lẽ dường như là một điều kỳ cục nếu liên kết dầu hỏa của Ả Rập Saudi với sự sống còn của Miền Nam Việt Nam trong nỗ lực tìm kíếm viện trợ về quân sự, tuy nhiên trong những ngày đen tối nhất của tháng 4 năm 1975 thì chẳng có chuyện gì là kỳ cục cả. Khi người ta đang sắp sửa bị chết trôi thì ai cũng đều cố gắng nắm vào cái gì đang nổi trên mặt nước”.

Người Việt Nam tin rằng số phận của họ đã đến chỗ tuyệt cùng: Khi mà kế hoạch của Quốc Vương Faisal sắp sửa được thực hiện thì nhà vua lại bị một người cháu giết chết. Tổng Thống Thiệu đã gửi một bức công điện phân ưu đến Hoàng Gia Ả Rập Saudi và đồng thời khẩn nài chính phủ Ả Rập tiếp tục kế hoạch viện trợ của cố Quốc Vương Faisal. Chính phủ Ả Rập Saudi trả lời rằng họ sẽ cứu xét đề nghị này và Tổng Thống Thiệu đã gửi Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc sang thăm viếng Ả Rập Saudi. Người Việt Nam tự than thở rằng chính số của họ là sẽ bị bỏ rơi.” Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold Schecter: Sách đã dẫn, trang 306.

Trong một cuốn sách mới xuất bản vào năm 2005, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng có nói thêm về việc này và cho đăng nguyên văn bức điện văn của Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc gửi cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phúc trình về việc này như sau:

“Vừa vào phòng, ông Thiệu đưa cho tôi xem một công điện đề ngày 14 tháng 4 năm l975 do Ngoại Trưởng Bắc gửi từ Luân Đôn về. Ông Bắc vừa ở Saudi Arabia đi Luân Đôn. Chuyến đi của ông có mục đích xin Quốc Vương Haled Crown (tiếng Anh là Khalid), vừa kế vị Quốc Vương Faisal, đồng ý cho Việt Nam Cộng Hòa vay tiền như phụ vương của ông đã bị ám sát.

Luân Đôn ngày 14 tháng 3 năm 1975

Công tác tôi đi Saudi Arabia đã được kết thúc thành công. Tôi được tiếp kiến Vua Haled Crown, Hoàng Tử Rabed và Hoàng Tử Abdullab (cũng là Thủ Tướng) Đệ Nhất và Đệ Nhị Phó Thủ Tướng. Tất cả, đặc biệt là Vua Haled đã cho tôi những bảo đảm vững chắc về việc tiếp tục yểm trợ và viện trợ kinh tế cho Việt Nam Cộng Hòa. Tôi đã thảo luận kỹ càng với Hoàng Tử Rudal Faisal (Bộ Trưởng Ngoại Giao,) Hoàng Tử Massoud (Thứ Trưởng Ngoại Giao) và ông Amant (Tổng Trưởng Dầu Lửa và Tài Chánh).

Về viện trợ sắp tới tôi đã cung cấp cho chính phủ Saudi một bản giác thư trình bày chi tiết về nhu cầu viện trợ và tình hình tại Miền Nam. Tôi hy vọng là quyết định về khoản tiền và phương thức của viện trợ sẽ được chính phủ Saudi cứu xét sớm” [Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Cơ sở Xuất Bản Hứa Chấn Minh, San Jose, Califoria, 2005, trang 310-311].

Bức điện văn này đề ngày 14 tháng 4 năm l975 và chỉ một tuần sau đó thì Tổng Thống Nguyên Văn Thiệu từ chức, nửa tháng sau đó thì Miền Nam rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Tuy nhiên vào những ngày tháng 4 năm 1975, việc nước Ả Rập Saudi hứa sẽ trợ giúp cho Việt Nam Cộng Hòa cũng phải được xem như là một “phép lạ”, dù rằng đó chỉ là một phép lạ trong ảo tưởng mà thôi.

Sau 1975, người viết có cơ hội làm việc tại Jeddha, nước Ả Rập Saudi, trong một thời gian và có nghe nói đến việc nầy. Một vài người Ả Rập của người viết cho biết rằng vào khoảng cuối năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa có tham dự một cuộc triển lãm quốc tế tại Thành Phố Hải Cảng Jeddha, lúc bấy giờ là Thủ Đô thương mại và ngoại giao của Vương Quốc Ả Rập Saudi. 

Trong cuộc triển lãm nầy, Việt Nam đã gởi sang trưng bày những bức tranh cũng như là một sô bàn ghế sơn mài, đa số là của công ty Thành Lễ và những sản phẩm này đã được dân chúng, nhất là giới thương lưu giàu có trong Hoàng Gia nhiệt liệt tán thưởng, nhờ đó mà họ có cảm tình với Việt Nam Cộng Hòa. Quốc Vương Faisal là một trong những người đó. Họ cũng xác nhận chuyện Vua Faisal có ý định viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa tuy nhiên vì phía Việt Nam quá chậm chạp trong việc xúc tiến kế hoạch này cho nên sau khi Nhà Vua bị ám sát thì vị Hoàng Thái Tử (crown prince) là Kbalid ibn Abdulaziz lên nối ngôi không biết gì nhiều về việc này, do đó mà kế hoạch đã không được xúc tiến và bất thành.

Dường như đó cũng là vận nước cho nên Miền Nam đã bỏ lỡ mất cơ hội có một không hai này. Số phận của Việt Nam Cộng Hòa cũng gặp nhiều sự không may vì Quốc Vương Khalid (1975-l982) là người có đầu óc bảo thủ, không chú trọng nhiều đến những vấn đề bên ngoài thế giới Ả Rập cho nên ông ta không để ý đến việc Quốc Vương Faisal đã có quyết định trợ giúp cho Miền Nam Việt Nam chống lại cộng sản. 

Tuy nhiên sau khi lên ngôi, Quốc Vương Khalid lại chọn Hoàng Tử Fabd ibn Adulaziz làm Hoàng Thái Tử kế vị thì ông này lại là người không những am tường về các vấn đề quốc tế mà lại còn là người chống cộng sản rất tích cực. 

Sau khi Vua Khalid băng hà vào năm 1982, Hoàng Tử Fadb ibn Abdulaziz trở thành Quốc Vương trị vì nước Ả Rập Saudi từ năm 1982 cho đến đầu tháng 8 năm 2005. Trong thời gian trị vì, Vua Fadh đã viện trợ vô cùng tích cực cho phong trào kháng chiến A- Phú-Hãn chống lại cộng sản Liên Xô trong mấy thập niên và sau cùng thì Liên Xô phải triệt thoái ra khỏi A-Phú-Hãn.

Nếu Quốc Vương Fahd lên ngôi thay cho Quốc Vương Faisal ngay từ năm 1975 thì biết đâu tình hình Việt Nam lại chẳng có thể một vài thay đổi ?

(còn tiếp)
◾◾◾◾◾
Trí Nhân Media

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét