Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




SÁNG KIẾN "MỘT VÀNH ĐAI MỘT CON ĐƯỜNG"

Do Duy Ngoc
5-11-2018

Theo nguồn tin từ đặc phái viên TTXVN, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa có cuộc gặp với lãnh đạo tối cao của Chính quyền Bắc Kinh ông Tập Cận Bình nhân chuyến tham dự hội chợ Nhập khẩu quốc tế Trung Quốc CIIE 2018 hôm 4/11.

Tại đây, Thủ tướng đánh giá cao các sáng kiến của Trung Quốc đang “đóng góp cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới”, nguồn tin cho biết.

Đồng thời, ông hoan nghênh sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc trong việc thúc đẩy hợp tác cùng có lợi và hỗ trợ các nước đang phát triển trong xây dựng kết cấu hạ tầng.

Bên cạnh đó, Thủ tướng ủng hộ việc kết nối sáng kiến “Vành đai và Con đường” với khuôn khổ hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt – Trung” tại Việt Nam.


Ta tìm hiểu thêm về sáng kiến này và sẽ đặt ra câu hỏi tại sao lãnh đạo Việt Nam lại sốt sắng với sáng kiến này đến thế?

"Một vành đai, Một con đường" là gì?

"Một vành đai, Một con đường" còn được gọi là Sáng kiến ​​"Vành đai và Con đường" là một khuôn khổ cho tổ chức phát triển kinh tế đa quốc gia của Trung Quốc thông qua hai kế hoạch thành phần, trên đất liền "Vành đai Kinh tế Con đường tơ lụa và và Đường hàng hải" Con đường tơ lụa trên biển. Sáng kiến ​​này đã được công bố bởi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong thông các kế hoạch cho Vành đai và Con đường tơ lụa này lần lượt trong tháng 9 và tháng 10. Thủ tướng Lý Khắc Cường kêu gọi đẩy nhanh việc xây dựng đường vành đai và trong các báo cáo công việc của chính phủ.



Tại Hội nghị thượng đỉnh Bắc Kinh của diễn đàn Vành đai và Con đường từ ngày 12-ngày 14 tháng 5 năm 2017 về dự án cơ sở hạ tầng liên lục địa "Một vành đai, Một con đường" có đại diện từ 100 quốc gia, trong đó có 29 nguyên thủ quốc gia tham dự. 

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói sẽ dành vào khoảng 124 tỷ USD cho dự án. Tuy nhiên, có 6 nước châu Âu gồm: Đức, Pháp, Anh, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Estonia từ chối ký kết vào bản thông cáo chung công bố ngày 15-5 khi Hội nghị bàn tròn kết thúc. Các nước châu Âu từ chối đặt bút ký do văn bản này không quan tâm đúng mức đến "các chuẩn mực về môi trường, về các tiêu chuẩn xã hội, không bảo đảm tính minh bạch mỗi khi các cơ quan nhà nước gọi thầu". Đây là những chuẩn mực mà Liên minh châu Âu (EU) luôn đòi hỏi trong hợp tác với Trung Quốc trong thời gian qua và do Trung Quốc không thực sự mở cửa thị trường nội địa của mình. Sự phản ứng trên được cho là bắt nguồn từ bộ trưởng kinh tế và năng lượng của Đức, bà Brigitte Zypries.

Hoa Kỳ và các đồng minh của họ trong khu vực, chủ yếu là Ấn Độ và Nhật Bản, lo ngại rằng các dự án như Hambantota ở Sri Lanka và các điều khoản dễ dàng trong việc cho vay của Trung Quốc làm cho các nền kinh tế khu vực gặp bất lợi. Phát biểu tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế ở Washington ngày 18.10.2017, ông Rex Tillerson, Ngoại trưởng Mỹ, cảnh báo rằng khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương có thể trở thành nạn nhân của “kinh tế kẻ cướp” (predatory economics) của Trung Quốc. Ông nói các hành động của Trung Quốc "làm cho các quốc gia trong khu vực sẽ phải gánh chịu số nợ khổng lồ (Wikipedia)

Người ta đặt câu hỏi về những bước đi của Trung Quốc và mục đích của sáng kiến này là gì?

Nghiên cứu về sáng kiến, ta thấy rõ “Một Vành Đai, Một Con Đường” có ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam trên mọi lãnh vực, thế nhưng Việt Nam khó thoát khỏi những ảnh hưởng của sáng kiến ấy.

Mục đích của Trung quốc là muốn làm chủ khu vực Châu Á và trở thành cường quốc thế giới ngang hàng Nga, Mỹ và có thể sánh vai cùng cộng đồng Châu Âu góp phần lãnh đạo thế giới. 

Đó là một tham vọng rất lớn mà triều đại Tập Cận Bình muốn thực hiện cho được.


Sáng kiến gồm hai phần: Một Vành Đai (One Belt) và Một Con Đường (One Road).


Một vành đai là Vành đai tơ lụa từ Tây An băng qua các thành phố lớn gồm Almaty, Bishkek, Samarkand, Tehran, Istanbul, Moscow và Rotterdam trước khi kết thúc ở Venice. Kế hoạch là xây dựng hệ thống đường bộ, đường sắt, và hệ thống ống dẫn dầu khí xuyên Trung Á đến châu Âu.

Một Con Đường chỉ “Con đường Tơ lụa Hàng hải Thế kỉ 21″, bắt nguồn từ Phúc Châu (Fuzhou), kết nối các thành phố ven biển từ Hà Nội, Jakarta, Kuala Lumpur, Kolkata, Nairobi, trước khi kết nối với “Vành đai Tơ lụa Kinh tế” ở Venice.

Để chuẩn bị cho việc hình thành «Con đường Tơ lụa Hàng hải», kế hoạch sẽ là xây dựng các hải cảng và các cơ sở hậu cần đường thủy từ Thái Bình Dương sang biển Baltic. Mà ở Việt Nam đó sẽ là việc xây dựng hệ thống đường cao tốc nối các tỉnh phía Nam của Trung Quốc với Hà Nội và các hải cảng phía Bắc, đồng thời nâng cấp hoặc xây mới các hải cảng ở vùng này.

Qui mô của chiến lược được dự đoán ảnh hưởng trực tiếp đến 65 nước và 4,4 tỷ người, nối kết một khu vực địa lý tạo ra 55% tổng sản lượng toàn thế giới, đại diện cho 70% dân số toàn cầu, và chiếm xấp xỉ 75% tổng lượng năng lượng dự trữ đã biết. Dự án dự tính cần khoảng 30 đến 35 năm để hoàn thành.

Trước hết, chiến lược là một phương cách nhằm đối phó với các nỗ lực của Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và các đối tác trong việc hình thành nên các hiệp định thương mại nhằm gạt TQ ra khỏi các mạng lưới liên kết đối tác. 

Cụ thể là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Thương mại Tự do xuyên Đại Tây Dương (TTIP). Nếu cả hai hiệp định này được thông qua thì khi đó hàng hóa có giá trị thấp của các nước châu Á sẽ thay thế hàng TQ trong mạng lưới các nước đối tác, trong khi hàng hóa công nghệ cao của Nhật và các nước châu Âu sẽ cạnh tranh hơn hẳn hàng hóa chất lượng cao của TQ. TQ do đó sẽ bị cô lập về kinh tế. Chiến lược OBOR, bằng cách thắt chặt nền kinh tế TQ với nền kinh tế các quốc gia trong mạng lưới OBOR, sẽ khiến các quốc gia khác chia sẻ một định mệnh kinh tế với mình.

Ở khía cạnh thứ hai, chiến lược như là một cố gắng của TQ trong việc kéo các nước châu Á tích hợp và phụ thuộc vào TQ và nền kinh tế của mình nhằm tạo ra một hệ thống quyền lực mới ở Châu Á đặt trọng tâm tại Bắc Kinh như là một cách để đối đầu và làm thất bại chiến lược xoay trục về châu Á của Hoa Kỳ. Đó là một nỗ lực của TQ nhằm gửi ra một thông điệp đến Hoa Kỳ rằng châu Á là của mình.

Một mục đích thứ ba của chiến lược đó là dùng các tiếp cận kinh tế từ hỗ trợ, đầu tư trực tiếp, cho đến xuất khẩu các chính sách phát triển quốc gia đến các nước châu Á trong khu vực như là một cách nhằm giải tỏa đi các tranh chấp biên giới và hàng hải. Các quốc gia có tranh chấp với TQ gồm Ấn Độ với tranh chấp đường biên giới, Việt Nam và Philippines với các tranh chấp về hải đảo. Bằng cách đưa “củ cà rốt” về lợi ích kinh tế tới các đối tác tranh chấp, TQ muốn họ đồng ý trong những đòi hỏi chủ quyền của mình.

Ở mục đích thứ tư, chiến lược, bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng, tận dụng các hiệp định sẵn có và gỡ bỏ đi các rào cản thuế quan, cho phép nền kinh tế TQ tích hợp sâu hơn vào các nền kinh tế năng động khác. Nhờ đó giúp cho nền kinh tế TQ tăng xuất khẩu, giải quyết được khả năng sản xuất vốn đã bị dư thừa, và làm chậm lại quá trình đi xuống của nền kinh tế trong khi TQ đang cố gắng cải tổ nền kinh tế từ sản xuất để xuất khẩu sang tăng tiêu dùng nội địa.

Ở mục tiêu thứ năm, chiến lược cũng là một phương thức nhằm cải thiện hố ngăn cách về xã hội và kinh tế giữa các tỉnh duyên hải và nội địa của TQ. Các hành lang của chiến lược OBOR bắt đất từ các tỉnh nội địa trung tâm và phía Tây của TQ. Các kết nối hạ tầng của chiến lược giúp kết nối các tỉnh nội địa trung tâm và phía Tây, nơi vốn có mức lương thấp, với các thị trường mới ở nước ngoài sẽ giúp thúc đẩy một sự dịch chuyển các ngành kinh tế ở các tỉnh duyên hải ngược lên các tỉnh này. Bên cạnh đó, theo mô hình kinh tế đàn sếu bay, sự dịch chuyển đến lượt nó thúc đẩy các kết nối kinh tế mạnh mẽ hơn giữa duyên hải và nội địa, đồng thời tạo đà cho các sự phát triển các sản phẩm có giá trị cao hơn ở các tỉnh duyên hải.

Và cuối cùng, chiến lược đóng vai trò như một cách để giải quyết các thách thức về an ninh ở biên giới phía Tây và các vấn đề về an ninh năng lượng. Việc tích hợp về kinh tế của các tỉnh phía Tây Trung Quốc với hệ thống các chuỗi giá trị của thế giới thông qua các liên kết thương mại với các đối tác láng giềng giúp tăng cường khả năng chống khủng bố, ly khai và cực đoan tôn giáo trong khu vực, đặc biệt là vùng Tân Cương.

Để đạt được ba mục tiêu như vậy, chiến lược “Một Vành Đai, Một Con Đường” dựa trên ba trụ cột chính. Đầu tiên, chiến lược thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển các kênh giao dịch thương mại mới.

Thứ hai, chiến lược nhằm tạo ra một sự phụ thuộc lẫn nhau giữa TQ, các quốc gia và vùng miền khác thông qua các mạng lưới đối tác toàn cầu, mà một trong các phương thức đó là thúc đẩy nhiều hơn các thanh toán trực tiếp bằng đồng Nhân dân tệ, tạo ra các liên kết hợp tác thông qua các tổ chức đa phương mà TQ nắm quyền chi phối như Ngân hàng Đầu tư hạ tầng Châu Á (Asian Infrastructure Investment Bank – AIIB), Ngân hàng Đầu tư mới (New Development Bank), Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (Shanghai Cooperation Organisation), và ASEAN+1.

Và thứ ba, chiến lược tập trung vào châu Á như một phần của chính sách ngoại giao láng giềng mới. Bằng cách xây dựng lại mối quan hệ chặt chẽ hơn về kinh tế với các vùng miền dọc theo Con đường Tơ lụa Mới, Bắc Kinh đang cố gắng thắt chặt sự thịnh vượng của khu vực vào mối quan hệ với Trung Quốc nhằm giúp hình thành nên một đế quốc kinh tế có trung tâm đặt tại TQ.

Để thực hiện các dự án này, đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng, TQ dựa phần lớn vào vai trò của các tập đoàn nhà nước. Để hỗ trợ tài chính cho các dự án, ngoài việc hợp tác với các chính phủ liên quan, các dự án còn có sự hỗ trợ nguồn lực tài chính thông qua ba tổ chức chính là quĩ Silk Road Fund với 40 tỷ đô la Mỹ, Ngân Hàng Đầu Tư Hạ Tầng Châu Á (Asian Infrastructure Investment Bank — AIIB) với 100 tỷ đô la Mỹ, và Ngân hàng Đầu tư mới (New Development Bank) với 50 tỷ đô la Mỹ.

Nói một cách ngắn gọn, chiến lược “Một Vành Đai, Một Con Đường” vừa nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững nền kinh tế trong nước của TQ, vừa thiết lập một hệ thống kinh tế mới nơi TQ đứng giữa chi phối các nền kinh tế của các quốc gia xoay quanh, khiến họ phụ thuộc vào nền kinh tế TQ, vừa để tránh việc Trung Quốc bị cô lập trên trường thương mại thế giới, và cuối cùng, một hệ thống như vậy còn giúp TQ tranh thủ ảnh hưởng để thực hiện các chính sách khác từ chính trị đến ngoại giao như giải quyết các tranh chấp lãnh thổ hay kiến tạo các quan hệ đồng minh.

Thật ra sáng kiến "Một vành đai-Một con đường” của Trung Quốc, lần đầu được Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nêu ra ở Kazakhstan năm 2013. Chương trình trị giá khoảng 1.000 tỷ USD này liên kết với 65 quốc gia, chiếm 60% dân số và khoảng một phần ba GDP thế giới. Trung Quốc có tham vọng xây tuyến đường sắt hiện đại nối vùng duyên hải của họ với Tây Á, Trung Á và châu Âu. 

Bốn năm sau khi giới thiệu, kế hoạch“Một vành đai một con đường” không ngừng mở rộng về mặt địa lý: từ 60 nước ban đầu, nay đã lên đến khoảng 100. Danh sách các lĩnh vực cũng được nối dài. Từ các cơ sở hạ tầng giao thông đơn thuần, nay gồm cả hợp tác văn hóa, du lịch. Mục tiêu kế hoạch này là tạo ra các thị trường mới cho các doanh nghiệp Trung Quốc trong lúc quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế hướng vào thị trường nội địa đang đuối sức và thất bại.

Vào tháng 4 năm nay, đại sứ của 27 quốc gia Liên minh Châu Âu ở Trung Quốc đã cùng ký tên vào một bản tuyên bố, nghiêm giọng phê phán quá trình thực thi kế hoạch “Một vành đai-Một con đường” là không công khai, tổ chức đấu thầu không minh bạch, chỉ có lợi đối với các công ty Trung Quốc, gây hại tới lợi ích quốc gia của những nước nằm trong kế hoạch này. Phản ứng Liên minh Châu Âu là hành động mới nhất ngăn trở kế hoạch “Một vành đai-Một con đường”.

Trên thực tế từ khi khởi động dự án này vào năm 2013, không chỉ có các quốc gia phương Tây không tán thành kế hoạch của Trung Quốc, mà ngay cả những quốc gia vốn được đánh giá là “thân thiện” cũng bắt đầu có những hành động cho thấy sự bất mãn của họ. Pakistan, Nepal, Miến Điện, Thái Lan đã liên tục huỷ bỏ các dự án đầu tư hạ tầng hay khoản vay của phía Trung Quốc như đập thuỷ điện, đập nước, đường sắt cao tốc, hải cảng…

Dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ của Trung Quốc, về mặt hình thức có vẻ rất hấp dẫn, khoảng 140 thỏa thuận về giao thông các loại đã được Trung Quốc ký kết với các đối tác, riêng tại khu vực Trung Á. Rất nhiều quốc gia ký kết hợp đồng với Trung Quốc ở trong trạng thái rất mong manh về tài chính, bất ổn về an ninh và nạn tham nhũng đè nặng, dẫn tới nguy cơ vỡ nợ tài chính đối với các quốc gia trên. Cho đến nay đã có ít nhất 9 quốc gia nối gót nhau bước vào bẫy nợ của Trung Quốc đã giăng ra, bao gồm: Pakistan, Sri Lanka, Djibouti, Kyrgyzstan, Lào, Maldives, Mông Cổ, Montenegro, và Tajikistan.

Năm 2017, sau một thời gian chật vật vì nợ tiền doanh nghiệp Trung Quốc, cuối tuần qua, chính phủ Sri Lanka rốt cuộc đã chính thức bàn giao quyền sử dụng cảng biển chiến lược Hambantota cho Trung Quốc theo hợp đồng thuê có thời hạn 99 năm. Trước đó, hồi tháng 7, Công ty China Merchants Port Holdings của Trung Quốc đã chấp thuận bỏ 1,12 tỷ USD mua 70% cổ phần tại cảng Hambantota. Bản hợp đồng cho thuê cảng Hambantota có thể đặt ra một tiền lệ xấu cho Sri Lanka và những quốc gia khác cũng đang nợ tiền Trung Quốc. Theo đó, họ có thể chấp nhận những thỏa thuận liên quan tới việc phải hi sinh cả quyền chủ quyền ở một số vùng lãnh thổ hay tài sản quốc gia chỉ để… trừ nợ. 

Tổng nợ của hòn đảo này là 64 tỷ đô la. Khoảng 95% tổng thu ngân sách của chính phủ là để trả nợ. Và khi một phần tiền vay mượn dường như đã bị lãng phí vào cơ sở hạ tầng không có một dấu hiệu nào cho thấy đem lại lợi nhuận, thì điều đó còn tai hại hơn. Tại sân bay quốc tế, cách Hambantota chừng 30 km, chỉ có 5 chuyến bay mỗi tuần phục vụ vài trăm hành khách. Được mệnh danh là “sân bay vắng vẻ nhất thế giới”, Mattala Rajapaksa hiện cho thuê các ga hàng hóa làm chỗ chứa gạo thay vì phục vụ các hoạt động hàng không. Có tới 350 nhân viên an ninh ở đây chủ yếu được huy động để… đuổi thú hoang. Rồi một trung tâm hội nghị hiện đại mà hầu như không được sử dụng, và một sân chơi criket nay chỉ thỉnh thoảng được cho thuê làm đám cưới.

Năm 2018, quốc gia châu Phi Djibouti vì thiếu nợ Trung Quốc, có thể mất đi quyền kiểm soát một cảng biển chiến lược là Doraleh Port. Cuối tháng 2 vừa qua, chính phủ Djibouti đã chấm dứt hợp đồng điều hành cảng container Doraleh (DCT) với nhà khai thác cảng DP World (UAE), lấy lý do hợp đồng này đi ngược lại các lợi ích cơ bản của đất nước. Công ty nhà nước Trung Quốc China Merchants Port Holdings đang sở hữu 23,5% cổ phần trong Port de Djibouti SA, công ty mẹ của DCT. Ngoài ra, cảng này nằm ngay cạnh căn cứ quân sự duy nhất của Trung Quốc ở nước ngoài, đây là nơi được Trung Quốc tuyên bố là căn cứ hậu cần phục vụ các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và sứ mệnh nhân đạo.Tuy nhiên, điều đáng chú ý là căn cứ này còn có cơ sở hạ tầng quan trọng gồm doanh trại, nhà kho, các đơn vị bảo trì và cơ sở neo đậu có thể chưa hầu hết các tàu thuộc Hạm đội Hải quân Trung Quốc. Đây cũng như là điểm tiếp nhận chính của các căn cứ Mỹ, Pháp, Ý, Nhật tại Djibouti. Trong số này, căn cứ Lemonnier của Mỹ hiện có khoảng 4.000 quân nhân và là nơi phát động nhiều chiến dịch quân sự, chống khủng bố khắp khu vực kênh đào Suez, Châu Phi, Trung Đông và Ấn Độ Dương và các vùng biển xa. Điều này đa dẫn tới sự cảnh giác từ phía Hoa Kỳ.

Ngoài ra Trung Quốc còn đầu tư xây dựng căn cứ hải quân thứ hai của mình ở nước ngoài tại Gwadar, Pakistan. Cảng Gwadar nằm ở cửa vịnh Ba Tư, gần eo biển Hormuz, chỉ cách biên giới với Iran 120 km. Gwadar được xem như cửa ngõ của Hành lang Kinh tế Trung Quốc – Pakistan CPEC, một chủ điểm của kế hoạch “Một vành đai-Một con đường”. Trung Quốc sẽ có thể chuyển tải từ cảng này một số lượng dầu lửa phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, qua đó tiết kiệm hàng tỷ đôla, thời gian quý báu và quan trọng hơn là tránh không phải đi qua eo Malacca vốn nhiều rủi ro và nằm dưới sự kiểm soát của Hoa Kỳ lẫn các đồng minh Châu Á. Gwadar sẽ đóng vai trò quan trọng trong con đường tơ lụa trên bộ và trên biển của Trung Quốc, nối nước này với Trung Á và các khu vực khác. Quan trọng hơn, trong khi Gwadar được xây dựng như một cảng thương mại thay vì căn cứ hải quân phục vụ quân đội Trung Quốc, điều này có thể thay đổi trong tương lai. Sự thay đổi chức năng của cảng gần như chắc chắn sẽ diễn ra khi Trung Quốc và Ấn Độ cạnh tranh ảnh hưởng tại Ấn Độ Dương. Đồng thời, việc hoàn tất CPEC sẽ cho phép Trung Quốc kết nối với các mối quan tâm kinh tế lớn của nước này nằm ở quốc gia láng giềng Afghanistan, đặc biệt là về các khoáng sản đồng và dầu hoả, khí đốt.

Hiển nhiên, lợi dụng việc cho vay nợ, xiết nợ để đổi đất thiết lập căn cứ quân sự ở nước ngoài là một trong những chiến lược khởi động của kế hoạch “Một vành đai-Một con đường”. Hoa Kỳ bởi vì là quốc gia giành thắng lợi kể từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh lạnh, càng là có được sức ảnh hưởng toàn cầu bằng sức mạnh mềm với nền dân chủ mạnh mẽ, do vậy nhận được yêu cầu đóng quân khắp các khu vực trên toàn cầu nhằm duy trì vai trò cảnh sát quốc tế, giữ gìn trật tự thế giới, nhận được sự chào đón của người dân các quốc gia khác. Ngược lại thì chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc với thể chế độc tài độc đảng, hình ảnh quốc tế xấu xí, hình ảnh chuyên bắt nạt, bá quyền với các quốc gia láng giềng gây ác cảm đối với dư luận quốc tế, tuy hiện tại đã giàu có trở thành trọc phú, trong tay có lực lượng quân sự khổng lồ nhưng lại không thể đi ra khỏi biên giới lãnh thổ Trung Quốc. Thế là Trung Nam Hải suy tâm khổ tính, xây dựng nên kế hoạch về công trình khổng lồ “Một vành đai-Một con đường”, dùng “viện trợ kinh tế” để làm bình phong, bên trong thực chất là thực hiện mục tiêu khống chế chính trị thế giới, càng là bốn phía lấm lét dò xét, tìm kiếm điểm đặt chân, mượn cớ xây dựng căn cứ quân sự ở hải ngoại.

Mục tiêu lâu dài của chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc, vẫn là toàn diện đối kháng với Hoa Kỳ với mũi nhọn hướng về lĩnh vực kinh tế, chính trị đến quân sự nhằm tranh đoạt quyền lãnh đạo toàn cầu. Thậm chí, kế hoạch “Một con đường-Một vành đai”, ngoài việc kéo dài qua các quốc gia châu Á có mức độ phát triển yếu kém, tham nhũng lan tràn như Việt Nam, Philippines, Indonesia, còn thiết lập ở khu vực chiến loạn bất ổn, xung đột liên miên, chính trị không ổn định, mức độ bảo vệ an ninh yếu kém như Trung Đông và Trung Á, Nam Á. Đây hiển nhiên là chiến lược của Trung Quốc nhằm tìm kiếm vào khu vực mà phạm vi sức ảnh hưởng của Hoa Kỳ chưa bao phủ hết, tấn công vào những điếm yếu chiến lược của Hoa Kỳ.

Hành động này của chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc, hiển nhiên là đem lợi ích thiết thân của người dân Trung Quốc làm tài sản thế chấp. Một khi các quốc gia trong những khu vực trên nổi lên bất ổn kinh tế, bạo loạn xã hội hay chiến tranh thì số vốn đầu tư khổng lồ của Trung Quốc ngay lập tức chuyển thành khoản lỗ lớn, số tiền xương máu của người dân Trung Quốc kiếm được trong mấy chục năm qua một đi không trở lại. Có thể thấy rằng, ở Trung Quốc nơi mà người dân không có tự do ngôn luận và quyền lợi tham gia sinh hoạt chính trị, không những họ không thể ngăn cản được hành vi mạo hiểm của chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc, hơn nữa còn phải trơ mắt nhìn đồng tiền xương máu của bản thân ném xuống sông biển. Nhìn từ góc độ này, kế hoạch “Một vành đai-Một con đường” vừa là cái bẫy của chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc tạo ra cho bản thân, cũng là cái bẫy mà phía Đảng Cộng sản Trung Quốc giăng ra cho chính người dân Trung Quốc.

Ngoài ra, “Một con đường-Một vành đai” của chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc còn một mục tiêu không thể đường hoàng đưa ra trước dư luận: tầng lớp quyết sách trong Đảng cùng giai cấp tư bản đỏ thân hữu dùng lý do hợp pháp “đầu tư ra nước ngoài”, tẩu tán tài sản phi pháp có được ra nước ngoài trên quy mô lớn, cũng chính là biến tướng của rửa tiền. Đây là một trong những phương cách rửa tiền bí mật nhất, quỷ quyệt nhất trên thế giới hiện nay.

Với những mục tiêu của Trung quốc qua sáng kiến" Một vành đai, một con đường" hậu quả mang lại cho các nước nằm trong kế hoạch sẽ gánh chịu nhiều tổn thất và thiệt thòi. Tuy nhiên Việt Nam, Trung Quốc cam kết tăng cường hợp tác

Bên lề Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Toàn cầu, Tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc gặp với Phó Thủ tướng Trung Quốc Hồ Xuân Hoa.

Ông Hồ Xuân Hoa đề nghị Bắc Kinh và Hà Nội cần "tích cực thúc đẩy sự hợp tác giữa Sáng kiến Vành đai và Con đường" của Trung Quốc với kế hoạch "Hai hành lang và một vành đai kinh tế" của Việt Nam.

Ông Hồ bàn về việc tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, kinh tế và thương mại, đầu tư, và phát triển thương mại biên giới để nâng cao mức độ hợp tác kinh tế. 

Phó Thủ tướng Trung Quốc cũng khuyến khích thúc đẩy trao đổi khoa học công nghệ, và giao lưu thanh niên giữa hai nước để "để củng cố nền tảng ý kiến xã hội và công chúng cho mối quan hệ thân thiện giữa hai nước."

Trong khi đó, ông Nguyễn Phú Trọng thì cho biết "Việt Nam luôn trân trọng tình hữu nghị anh em truyền thống" 

"sẽ tiếp tục củng cố niềm tin chính trị ở lẫn nhau và tìm kiếm sự hiệp lực chặt chẽ hơn trong chiến lược phát triển giữa hai nước."


Trong khi đó, cùng với xu hướng quốc tế mà phát khởi đầu tiên là Mỹ đang xem xét lại các thỏa thuận hợp tác thương mại với ĐCSTQ, nhiều quốc gia mới nổi như Malaysia, Úc, Myanmar, Sri Lanka, Pakistan, Nepal… sau khi nếm vị đắng từ các khoản tín dụng cho vay dễ dãi của Trung Quốc – thường gắn liền với quyền tiếp quản dự án cảng biển, đất đai khu vực dự án hay quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên các quốc gia đi vay – đã và đang lần lượt hủy bỏ dự án hợp tác với Trung Quốc.

Chẳng hạn, tân thủ tướng Malaysia Mahathir mới đây đã công khai hủy 3 dự án do Trung Quốc tài trợ với tổng trị giá 22 tỷ USD. Trước đó vào tháng Mười Một năm ngoái, chỉ trong vài tuần, cả Pakistan, Nepal và Myanmar đã đồng loạt hủy bỏ dự án thủy điện lớn của các công ty Trung Quốc. Hay như một đồng minh thân cận của Trung Quốc là Philippines – Tổng thống Duterte của quốc gia này mới đây cũng đã không dưới một lần lên án ĐCSTQ, kêu gọi Bắc Kinh “tái định hình” và “hành động ôn hòa” về vấn đề Biển Đông đang gây tranh cãi.

Nếu như sáng kiến “Vành đai và con đường” của Trung Quốc – gieo rắc nỗi ám ảnh và đẩy nhiều quốc gia lún sâu vào bẫy nợ của Bắc Kinh – đã được các nước nhận diện và có biện pháp đề phòng, thì đâu đó vẫn còn một số quốc gia sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi đảm bảo cho kế hoạch của Trung Quốc thành công, ít nhất là tại Việt Nam.

***********
Tổng hợp tư liệu từ 
- Wikipedia và các bài báo:
- Thủ tướng hoan nghênh sáng kiến ‘Vành đai và con đường’ của TQ - Bài của Minh Sơn đăng trên trithucvn
- "Một Vành Đai Một Con Đường” Là Cái Bẫy Dành Cho Ai? của Như Ý đăng trên báo Trí việt
Vành đai và Con đường lấy tài nguyên của nước đối tác - BBC
- Chiến lược ‘Một Vành Đai, Một Con Đường’ của Trung Quốc ( Bài của Nguyễn Huy Vũ đăng trên tri thức Việt Nam)

(Face Book)

Trí Nhân Media



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét