Tác giả: Dustin
Roasa
Người dịch: Đan Thanh - Blog Ba Sàm
Gần bốn thập niên sau khi chiến tranh Việt Nam
kết thúc, kẻ thù cũ của nước Mỹ hiện được cả thế giới xem là một tấm gương về sự
thành công (nguyên văn: success story, câu chuyện thành công – ND). Việt Nam có
một nền kinh tế bùng nổ, giai cấp trung lưu lớn mạnh dần, du lịch và các ngành
công nghiệp đang khởi sắc. Nhưng trong khi cải cách chính trị làm đổi thay
Myanmar, thì Việt Nam đang có nguy cơ biến thành một cái khác: đất nước hà khắc
nhất Đông Nam Á. Tuần này, các công tố viên một tòa án ở TP.HCM truy tố ba
blogger Việt Nam tội “tuyên truyền chống phá nhà nước” – vụ mới nhất trong một
loạt những vụ bắt bớ nhằm làm cho phong trào chống đối đang dâng lên phải ngậm
miệng.
Trong khi Myanmar tự do hóa thì Việt Nam tiếp
tục đàn áp người bất đồng chính kiến. Kể từ ngày 13-1, khi các junta (nhà cầm
quyền quân phiệt) ở Miến Điện phóng thích hàng trăm tù chính trị trong một đợt
ân xá lớn, thì an ninh Việt Nam bắt giữ ít nhất 15 người bất đồng chính kiến và
kết án tù 11 người khác. Trong khi bà Aung San Suu Kyi tươi tắn giành thắng lợi
bầu cử và sẵn sàng cho cương vị của mình trong quốc hội, thì những nhân vật chống
đối nổi bật nhất của Việt Nam đang tàn lụi trong nhà tù, trong chế độ quản thúc
tại gia, hoặc trong trại cải tạo (vâng, những trại cải tạo đó giờ vẫn được sử dụng).
Và trong khi Myanmar cấp thị thực cho các phóng viên nước ngoài cũng như nới lỏng
vòng tay xiết cổ báo chí quốc nội, thì Việt Nam tiếp tục kiểm soát chặt chẽ báo
chí trong nước và nước ngoài, chặn Facebook và các website “nhạy cảm” khác, khiến
Phóng viên Không Biên giới phải xếp họ ở vị trí thấp nhất trong các quốc gia
Đông Nam Á trên bảng Chỉ số Tự do Báo chí 2011-2012 của tổ chức này. Đem so
sánh, Việt Nam chỉ hơn Trung Quốc có hai bậc, xếp thứ 172 trên tổng số 179 nước.
“Việt Nam bắt đầu nhận ra rằng bằng việc tiếp
tục đàn áp nhân quyền, họ đang mời dư luận tiến hành những so sánh không dễ chịu
gì giữa họ với Miến Điện, về mức độ lạm quyền ở ASEAN [Hiệp hội Các Quốc gia
Đông Nam Á]” – ông Phil Robertson, Phó Giám đốc của Human Right Watch khu vực
châu Á, cho biết.
Đàn áp chính trị không phải chuyện mới mẻ gì ở
Việt Nam. Kể từ khi Sài Gòn sụp đổ năm 1975, Đảng Cộng sản đã cai trị đất nước
bằng quả đấm thép. Nhưng nhiều năm bị cô lập trong Chiến tranh Lạnh, thiếu vắng
một lực lượng đối kháng có tổ chức trong nước – chưa nói tới mặc cảm tội lỗi vì
chiến tranh của phương Tây và thiện cảm ý thức hệ vẫn còn lay lắt mà một số nước
cánh tả dành cho Hà Nội – đã khiến rất ít người quan tâm chú ý tới thực trạng
nhân quyền tồi tệ của đất nước này. Khi chính phủ mở cửa nền kinh tế vào những
năm 1990, giới đầu tư nước ngoài và kiều hối bắt đầu đổ vào, và kể từ đó, thế
giới chủ yếu đã chỉ chú ý tới sự thần kỳ kinh tế của Việt Nam. Đất nước tiếp tục
tiến lên, từ vị trí một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới vào giữa thập
niên 1980 với thu nhập đầu người dưới 100 USD, trở thành một con Hổ châu Á tăng
trưởng nhanh chóng, thu nhập đầu người đạt 1.130 USD vào cuối năm 2010. Đối với
cộng đồng quốc tế – những người chứng kiến sự mở đầu cuộc cải cách kinh tế của
chính phủ – thì đất nước dường như đang tiến bước vững chắc trên con đường tự
do hóa hậu Chiến tranh Lạnh, con đường mà nhiều nước trong khối Xô Viết cũ đã
chọn lựa. Đa số trong hàng triệu người nước ngoài đến hoặc sinh sống ở Việt Nam
đã bị làm phiền bởi sự hạn chế về quyền ngôn luận và quyền tụ tập – vốn không
phải là một thực tế trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam. Nhưng điều đó
không làm ảnh hưởng gì tới hình ảnh của chính phủ.
Mặc dù mang cái mẽ bề ngoài là tự do hóa,
nhưng ban lãnh đạo nòng cốt hiện nay của Đảng Cộng sản bảo thủ về chính trị hệt
như bất cứ ban lãnh đạo nào khác từ thời thống nhất tới giờ. Đứng đầu là một
nhóm quan chức trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Trương Tấn
Sang, cái khối này đàn áp không thương xót Khối 8406, một phong trào dân chủ quốc
nội kiểu như Hiến chương 77 của Tiệp Khắc ngày trước. Được thành lập vào năm
2006, nhóm 8406 thu hút hàng nghìn người ủng hộ công khai – và chắc chắn là còn
đông nữa những người ủng hộ bí mật – trước khi chính quyền tiêu diệt họ bằng
cách tống hàng chục người vào tù. Thêm vào đó, chính quyền còn nhằm cả vào các
nhà lãnh đạo tôn giáo, gồm cả tăng ni Phật giáo lẫn linh mục Thiên Chúa giáo,
vì giới này cổ súy cho tinh thần khoan dung tôn giáo. Trong vài năm gần đây,
chính quyền cũng gây phiền nhiễu và bỏ tù nhiều người Việt Nam yêu nước, kêu gọi
đất nước đứng dậy trước Trung Quốc. Mặc dù vậy, bất chấp nguy hiểm, các nhà hoạt
động Việt Nam vẫn tiếp tục phát biểu về đa nguyên chính trị, về tham nhũng, và
tự do ngôn luận – và kết cục là họ lại phải đi tù hoặc đi tị nạn chính trị.
Quá trình tan băng ở Myanmar có lẽ là món quà
tuyệt vời nhất cho họ. Sự đổi thay ở Myanmar chống lại cái tư duy thiển cận về
Việt Nam của cộng đồng quốc tế, và đặt vấn đề nhân quyền lên hàng đầu. Quan trọng
nhất là, theo một số nhà quan sát lâu năm về Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam rất sợ
điều này xảy ra. “Giới lãnh đạo Việt Nam đang theo dõi sát sao những diễn biến
hiện nay ở Myanmar, và họ sợ” – ông Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về chính sách
đối ngoại Việt Nam ở Đại học George Mason, cho biết. “Trong quá khứ, Việt Nam từng
sử dụng vai trò của họ ở ASEAN để thúc đẩyMyanmar phải thay đổi. Nhưng bây giờ,
Myanmar lại đi nhanh hơn Việt Nam”. Lãnh đạo Hà Nội có vẻ đã tính nhầm: Trước
kia, những lo ngại về tình hình nhân quyền ở Myanmar là một gánh nặng ngăn trở
tính chính danh của ASEAN trên trường quốc tế, thế nên Việt Nam và các nước
khác đã khôn ngoan yêu cầu các junta Miến Điện cải cách. Dù vậy, cái mà họ
không hề đòi hỏi, là một cú chuyển đổi 180 độ để đem đến một cuộc cải cách sâu
sắc. Và khi Myanmar ngày càng không còn giống một nhà nước của công an, cảnh
sát nữa, thì Hà Nội sợ sẽ bị thế giới chú ý sát sao theo cách họ không mong muốn.
“Nếu Myanmar đạt tiến bộ về vấn đề nhân quyền và được tưởng thưởng, thì Việt
Nam cũng sẽ phải đáp ứng những tiêu chuẩn đó” – ông Carl Thayer, một chuyên gia
Việt Nam học ở Học viện Quốc phòng Australia, cho biết. Giới lãnh đạo Việt Nam
còn sợ mất vai trò nhà trung gian quan trọng ở ASEAN, tức là làm trung gian giữa
Mỹ và Trung Quốc. “Việt Nam sợ là Myanmar sẽ trở thành nước được ASEAN yêu mến”
– ông Thayer nói.
Cùng với việc lãnh đạo Việt Nam ngày càng lo lắng
hơn về các dự định của Trung Quốc trong khu vực, nhất là về những yêu sách chủ
quyền tranh chấp các hòn đảo giàu tài nguyên trên Biển Đông, Việt Nam đã bắt đầu
thảo luận với chính quyền Obama về khả năng hợp tác quân sự. Đây là một cơ hội
rất tự nhiên để thúc ép Việt Nam trong vấn đề nhân quyền, và tới giờ thì các
quan chức Mỹ đã nói được điều đúng đắn. “Có một số hệ thống vũ khí Việt Nam muốn
mua hoặc muốn được chúng tôi chuyển giao, và chúng tôi có thể chuyển giao những
hệ thống này cho họ. Nhưng điều đó sẽ không xảy ra trừ phi họ cải thiện thành
tích về nhân quyền” – Thượng nghị sĩ Joe Lieberman cho biết sau chuyến thăm Hà
Nội cùng Thượng nghị sĩ John McCain hồi tháng 1. Ban lãnh đạo Việt Nam đang chịu
áp lực từ chính nhân dân của mình, đòi họ phải đứng dậy trước kẻ thù lịch sử là
Trung Quốc, và sự hậu thuẫn về quân sự từ phía Mỹ sẽ giúp hải quân Việt Nam trở
thành một đối thủ đáng gờm hơn nhiều trên Biển Đông.
Nhưng nếu Myanmar có cho thấy điều gì, thì đó
là sự chú ý trên phạm vi quốc tế của các nhà hoạt động, nhà báo, và các nhóm
nhân quyền, là yếu tố quan trọng nhất để khiến các chính phủ phương Tây phải
xem xét đến những lời hứa hẹn về nhân quyền. Myanmar hẳn đã không nhận được phần
thưởng sớm nếu như họ không có cải cách đi kèm; phản ứng của cộng đồng quốc tế
quả là đã quá mạnh. Thêm vào đó, bà Aung San Suu Kyi đã nói vô số lần – cũng
như vô số các nhà bất đồng khác trên thế giới đã nói – về sức mạnh đạo đức mà sự
nghiệp cách mạng của họ có được, nhờ được sự ủng hộ từ công luận quốc tế.
Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế |
Myanmar cũng cho thấy dự đoán một chính quyền sẽ
thay đổi bao giờ và như thế nào là trò ngốc. Nhưng nếu lịch sử hiện đại có thể
là một chỉ dấu, thì nhân dân Việt Nam đã cho thấy rằng họ hoàn toàn có khả năng
đứng dậy đương đầu với áp bức. Chính quyền hiện tại đã được nhắc nhở về điều
này, sau những sự kiện chưa từng có tiền lệ hồi tháng 1 vừa qua: Ở ngoại ô Hải
Phòng, thành phố cảng phía bắc, một nông dân nuôi cá đã lãnh đạo một vụ nổi dậy
có vũ trang nhằm vào chính quyền địa phương, do quan chức ở đây âm mưu tịch thu
đất của ông sau khi hết hạn thuê đất (Việt Nam không cho phép sở hữu tư nhân về
đất đai). Ông trở thành anh hùng dân tộc, và trong một loạt biến cố đảo chiều
ngoạn mục, chính quyền trung ương cũng như báo chí quốc doanh, ban đầu lên án
người nông dân nọ, sau đó chuyển sang bảo vệ ông. Năm tới, trên toàn quốc, những
hợp đồng cho thuê đất tương tự cũng sẽ hết hạn, có nguy cơ ảnh hưởng tới hàng
nghìn hộ dân nghèo. “Đây là một quả bom nổ chậm” – ông Thayer nói.
Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vốn rất
thành thạo trong việc định hướng những quả bom hẹn giờ ấy – và trong việc nhào
nặn nên lối kể chuyện về một nước Việt Nam đương đại như một trường hợp thành
công về kinh tế và ổn định chính trị. Nhưng với những thay đổi mà bước ngoặt của
Myanmar đã mang lại, và cùng với đó là sự đàn áp của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với những ai chỉ trích họ, cuối cùng đã đến lúc vấn đề nhân quyền phải giữ vị
trí trung tâm trong những trao đổi giữa phương Tây với Việt Nam. Phong trào dân
chủ của đất nước này – dàn trải nhưng đã trở nên táo bạo hơn sau bao năm bị khủng
bố – cho thấy họ đang sẵn sàng đem chuyện của mình kể ra thế giới. Nguyễn Quân
– vẫn giữ liên lạc thường xuyên với người em trai của mình là nhà bất đồng
chính kiến Nguyễn Đan Quế – nhớ lại một cuộc trò chuyện gần đây giữa hai anh
em. “Quế nói với tôi rằng mọi chuyện bây giờ khác rồi. Người ta không còn sợ
hãi như cách đây 10 năm nữa. Ngày càng có nhiều thanh niên tham gia hơn” – ông
kể. “Họ càng bắt bớ nhiều người, thì phong trào càng lớn mạnh hơn”.
(*)
Việt Nam cũng có những lúc được coi là một “con hổ châu Á”, ở đây có lẽ tác giả
nhái cách gọi đó với hàm ý giễu cợt.
Nguồn: Foreign Policy
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
Nguồn
: http://anhbasam.wordpress.com/2012/04/18/902-con-ho-hung-du/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét