Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




CHUYỆN LÀNG VÀ NGƯỜI LÀNG TÔI THỜI CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Thái Bá Tân
29-9-2012

" ..... Chúng chỉ có một niềm tự hào duy nhất là con cháu cán bộ cách mạng lão thành. Con cháu của thằng bố giết người mà chúng còn vênh vang!”

Hồi cải cách ruộng đất tôi còn nhỏ, nhưng cũng đủ lớn để chứng kiến khá nhiều chuyện xẩy ra trong làng. Mãi đến giờ tôi vẫn không sao quên nổi cái không khí điên khùng, kỳ cục những ngày ấy.

Chỉ đạo toàn bộ cuộc lên đồng tập thể kéo dài ấy là hai ông Đội, một từ Vinh, một từ tận trung ương về. Ông trung ương là người làng, có tên Hoạt, nghe nói ông tự xung phong, chứ cỡ ông không ai xuống cấp xã. Ông này trạc ba mươi lăm, bốn mươi tuổi, người vạm vỡ, ít nói và có thói quen chốc chốc lại ngúc ngắc đầu như đang cố xua một con ruồi vô hình.

Để nêu gương cách mạng, ông chọn ở nhà lão Thọt theo phương châm ba cùng, là cùng ăn, cùng ở và cùng làm việc, mặc dù ông chỉ về ngủ vào lúc đêm khuya, trên cái giường duy nhất trong nhà. Lão Thọt thì ngủ trong ổ rơm dưới bếp, thường có tôi ngủ cùng vì lão có cả một kho truyện ma để kể. Bù lại, ban ngày tôi nhổ tóc bạc và bắt rận cho lão.

Không hiểu sao người ta gọi Thọt khi lão đi đứng bình thường như mọi người. Lão còn khỏe mạnh dù đã hơn sáu mươi, trước từng đi lính sang Dijon bên Pháp. Nhưng lão mù, mà cũng mới đây thôi, sau một lần đau mắt và được ông thầy lang làng bên chữa bằng cách đắp hai con nhái đã nướng chín lên mắt.

Mấy ngày sau khi Đội về, đêm nằm lão bảo tôi:
-“Chúng nó bắt đầu ăn thịt nhau đấy, mày ạ?”
-“Sao phải ăn thịt nhau?” tôi hỏi.
-“Rồi mày xem. Bọn này chẳng hay ho gì đâu”.
-“Bọn nào ạ?”
-“Bọn Đội. Bọn chó chết. Nhất là thằng Lan”.

Lan là tên anh Đội thứ hai. Hắn còn trẻ nhưng rất hống hách, chuyên xúi người ta đấu nhau, và là thằng đầu têu đánh dã man những người bị qui oan. Đã thế hắn còn tham ăn và háu gái. Người ta thấy hắn bắt gà vịt và sờ mông, bóp vú đàn bà giữa ban ngày ban mặt mà chẳng ai dám nói gì. So với hắn, ông Hoạt còn tử tế hơn nhiều, mặc dù vì ông khối người phải khốn khổ.

Một tối nọ cô Bích, cháu đằng ngoại của lão Thọt, tấm tức chạy đến bảo lão cô bị hắn đè ra hiếp, dọa nếu không chịu, cả nhà cô sẽ bị qui địa chủ, tức là bị xử bắn. Lão Thọt nghe không nói một lời nào. Đêm ấy tôi nghe lão nghiến răng kèn kẹt mãi. Tối hôm sau, lúc ấy đã khuya, lão chui vào ổ rơm, ôm chặt tôi rồi thì thầm:
-“Tao giết hắn rồi!”
-“Giết ai?” tôi ngạc nhiên hỏi.
-“Thằng chó chết ấy chứ còn ai nữa. Chém một phát đứt ngang cuống họng. Ngoài đíếm canh”.
-“Nhưng bác mù…”
-“Mù ít thôi. Tao giả vờ đấy. Cấm mà bép xép với ai nhé! Tao giết!”

-Khỏi phải nói cả làng bị một phen điêu đứng thế nào. Người ta khám từng nhà, tra khảo từng người. Có hẳn một đoàn công an từ huyện về mà cuối cùng vẫn không tìm ra thủ phạm giết thằng Lan. Tất nhiên không ai nghi ngờ lão Thọt, vì lão mù.

Dần dần mọi chuyện cũng lắng xuống. Tiếp đến là sửa sai và làng lại đi vào nếp cũ. Ông Hoạt quay ra Hà Nội với công việc xưa nay của mình trong ngành an ninh. Ông thăng quan tiến chức nhanh chóng và chẳng bao lâu trở thành người danh giá nhất làng, đặc biệt khi ông về thăm quê bằng ô tô con, chiếc đài bé xíu đeo bên hông. 

Ở thủ đô, lần nào gặp mặt đồng hương xã nhân năm mới ông cũng có mặt, và đương nhiên ngồi ở chỗ nổi bật nhất, được trọng vọng nhất. Tôi cũng mấy lần bắt tay, nói chuyện với ông, kiểu xã giao thôi, do chênh lệch tuổi tác và nghề nghiệp. Tôi tặng ông một vài cuốn sách tôi viết, và ngạc nhiên khi biết ông đọc chúng, thậm chí đọc kỹ. Thỉnh thoảng ông còn gọi điện nhận xét. Hình như ông thích tôi, không biết vì sao, nhưng tôi có cảm giác như thế. Một lần vui miệng, ông nói ông đã cứu tôi khỏi bị công an bắt.

“Ngày mới về nước, cậu viết mấy bài thơ ủy mị, kêu khổ. Chúng nó đưa vào sổ đen, định bắt nhưng tớ đỡ cho, bảo người cùng làng và thằng ấy tốt nên mới thôi”. 

Tôi cảm ơn ông và chẳng biết nói gì thêm. Tôi có biết mình bị theo dõi, nhưng bị bắt và đi tù như một số văn nghệ sỹ lúc ấy thì quả thật không ngờ tới. Mà rồi tôi chỉ mới tập tạnh vào nghề chứ đâu đã thành danh gì cho cam. 

Một hôm, cách đây khoảng ba năm, ông gọi điện cho tôi và nói, giọng quan trọng:
“Cậu đến ngay nhà tớ, có việc muốn nhờ!”
Đến nơi, tôi ngạc nhiên thấy ông đang đứng chờ trước cổng nhà, mặc bộ quân phục đại lễ, huân huy chương đầy ngực. Ông vội chui vào xe và nói như ra lệnh:
“Lên Chèm! Khoan hẵng hỏi. Tớ sẽ chỉ đường.” Ông vẫn chưa quên cái giọng nói chuyện với cấp dưới khi ở cơ quan, dù đã về hưu hai chục năm nay. 

Tôi lặng lẽ làm theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang xẩy ra.
Cuối cùng, ông bảo tôi dừng xe bên sông Hồng, cách đền Ông Trọng không xa. Lúc ấy đã sáu giờ và mặt trời đang tắt dần ở phía Tây. Tôi theo ông đi xuống mép sông, vẫn hoàn toàn chưa biết ông định làm gì. Ở tuổi tám mươi, trông ông còn khỏe và cao lớn. Cái đầu vẫn thỉnh thoảng lắc lắc như xưa. Thế mà nghe nói như ông đang bệnh nặng. 

Chỗ sông này nước xuáy, ăn lõm vào bờ khá sâu. Ông đứng lên tảng đá lớn sát bờ, ra hiệu tôi lại gần và nói, cũng bằng cái giọng ra lệnh lúc nãy:
-“Hãy nhìn cho kỹ những gì tớ sắp làm…”
-“Bác định làm gì?” tôi hỏi, không dấu nổi sự ngạc nhiên và sợ ông nhảy xuống sông tự tử.
-“Cậu sẽ biết ngay đây. Tớ chỉ cần cậu như một người làm chứng”.
Rồi ông thong thả cởi từng chiếc huân, huy chương trên bộ quần áo đại lễ màu trắng, vứt mạnh xuống dòng nước chảy xiết. Khoảng dăm chiếc. Tôi không biết đó là huân, huy chương gì. 

-“Xong. Ta về! Coi như cậu trả ơn tớ không cho công an bắt ngày nào.”
-“Vì sao bác làm thế?” tôi hỏi khi đã ngồi trên ô tô.
-“Vì tớ sắp chết”. Biết tôi đang ngạc nhiên, ông nói tiếp: “Mà trước khi chết ai cũng muốn lòng mình thanh thản”.
- “Vâng, nhưng chuyện này liên quan gì đến mấy chiếc huân chương?”
-“Tại chỗ nước xoáy kia, sau khi cướp chính quyền năm bốn lăm, tớ đã giết một lãnh tụ đảng Việt Quốc. Bắt cóc giữa đường, cho vào bao tải rồi ném úm xuống đó. Ban đêm, tất nhiên, và cùng hai đồng chí khác của Nha cảnh sát cách mạng. Bắt cóc người ta, cho vào bao tải rồi ném xuống sông, cậu hiểu chứ? ”. 

Tôi ngồi im. 

-“Và người ta tặng huân chương cho tớ về việc ấy”, ông hạ giọng, vẻ chua chát.
Im lặng một lúc, tôi nói, cốt để an ủi ông:
-“Cái thời nó thế thì phải thế. Vả lại, đấy là nhiệm vụ cách mạng giao.”
-“Ừ, xưa nay người ta nói vậy thì biết vậy. Nhưng thực chất tớ là một thằng giết người. Một tên ác ôn không hơn không kém. Ác ôn cách mạng, nếu cậu muốn. Trước trẻ ào ào thì một nhẽ, về già không việc gì làm cứ nghĩ mà sợ. Như cậu hóa ra sướng. Suốt đời chỉ thơ phú hoa lá cành, lương tâm nhẹ nhàng… Nếu là tớ, cậu có thể chết thảnh thơi được không?”
-“Không”.
Khi xe về gần đến nhà, tôi hỏi:
-“Sao bác không bảo con cháu làm cái việc bác nhờ tôi hôm nay?”
-“Cái bọn hời hợt, hãnh tiến ấy, nhờ để chúng phá à? Chúng chỉ có một niềm tự hào duy nhất là con cháu cán bộ cách mạng lão thành. Con cháu của thằng bố giết người mà chúng còn vênh vang!”
Rồi ông vội vã đi vào nhà, quên cả chào từ biệt tôi.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét