Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




TÀU NGẦM NGA TẠI VIỆT NAM

TÀU NGẦM LỚP KILO CỦA VIỆT NAM VÀ 
TƯƠNG QUAN HẢI QUÂN TRONG KHU VỰC

Đức Tâm
8-9-2012

Tàu ngầm lớp Kilo 636 của Nga (Ảnh : naval-technology.com)
Tàu ngầm lớp Kilo 636 của Nga
(Ảnh : naval-technology.com)
Cuối tháng 08/2012, Nga hạ thủy và chạy thử chiếc tàu ngầm lớp Kilo để chuẩn bị giao cho Việt Nam. 

Nhân sự kiện này, chuyên gia Koh Swee Lean Collin thuộc S.Rajaratnam School of International Studies, NTU, có bài nhận định về tác động của lực lượng tàu ngầm Việt Nam đối với cán cân hải quân trong khu vực: Vietnam’s New Kilo-class Submarines: Game-changer in Regional Naval Balance? Bài được đăng trên trang web của trường, ngày 28/08/2012.

Tuần này, nhà máy đóng tàu Admiralty của Nga hạ thủy chiếc tàu ngầm đầu tiên trong số sáu tàu ngầm diesel-điện lớp Kilo mà Hải quân nhân dân Việt Nam đặt mua năm 2009; sự kiện này đánh dấu một mốc quan trọng trong việc tìm kiếm khả năng hoạt động dưới đáy biển của Hà Nội. Theo lịch trình chế tạo và thử nghiệm trên biển, chiếc tàu ngầm lớp Kilo đầu tiên sẽ được giao cho Việt Nam vào cuối năm 2012, sớm hơn nhiều so với thời hạn 2014 như dự định ban đầu và Hải quân Việt Nam sẽ nhận được tất cả sáu tàu ngầm lớp Kilo vào năm 2018.

Chương trình phát triển lực lượng tàu ngầm là một phần trong kế hoạch hiện đại hóa đầy tham vọng mà Hải quân Việt Nam đã bắt đầu tiến hành từ giữa những năm 1990. Được công bố lần đầu tiên vào năm 2009, kế hoạch mua tàu ngầm của Việt Nam đã gây ra nhiều ồn ào trên các phương tiện truyền thông về ảnh hưởng của kế hoạch này đối với cán cân sức mạnh hải quân trong khu vực. Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh số lượng và chất lượng, chủ đề này cần được xem xét kỹ càng hơn.

Tàu ngầm lớp Kilo trong cán cân hải quân Trung – Việt

Về số lượng, Hải quân Việt Nam không thể hy vọng theo kịp sự phát triển của hải quân Trung Quốc, do ưu thế kinh tế của nước này. Trung Quốc có một hạm đội tàu ngầm rất lớn và sẵn sàng tăng cường về số lượng, tạo ra một khoảng cách không chỉ với Việt Nam mà cả với những quốc gia có tàu ngầm trong khu vực. Về chất lượng, khả năng mới của Việt Nam hoạt động dưới đáy biển tạo ra một sự đối trọng đáng tín cậy, tuy không đối xứng, với sức mạnh hải quân ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại Biển Đông. Trung Quốc đã trang bị tàu ngầm lớp Kilo từ những năm 1990, do vậy, tàu ngầm của Việt Nam sẽ không phải là một điều bất ngờ mới mẻ.

Mặc dù vậy, tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam sẽ gây ra các lo ngại cho các nhà hoạch định chiến lược hải quân Trung Quốc, vì trong quá khứ, họ không cần phải tính tới khả năng hoạt động dưới đáy biển của Việt Nam. Thế nhưng, liên quan đến cán cân sức mạnh hải quân trong khu vực, khả năng mới mẻ này của Việt Nam sẽ không phải là một thách thức quá lớn đối với ưu thế về hải quản của Trung Quốc tại Biển Đông, khi nhìn trong tổng thế về khả năng phát triển tàu ngầm của Trung Quốc.

Tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam và cán cân hải quân ở Đông Nam Á

Trước khi Việt Nam mua tàu ngầm lớp Kilo, hải quân các nước Đông Nam Á khác đã mua một số lượng nhỏ tàu ngầm.

Cho dù vừa mới mua thêm tàu ngầm, Indonesia và Malaysia vẫn còn phải đối mặt với sự yếu kém về khả năng của hải quân, khi tính tới các vùng biển rộng lớn của những nước này. Đến năm 2018, với tất cả sáu tàu ngầm lớp Kilo được dự kiến đưa vào hoạt động, Việt Nam sẽ có một lực lượng tàu ngầm lớn nhất trong khu vực. Tuy nhiên, dường như các nước có tàu ngầm hiện nay ở Đông Nam Á sẽ tiếp tục phát triển lực lượng tàu ngầm của họ trong thập kỷ này.

Tàu ngầm lớp Kilo không phải là một điều lạ lẫm ở Biển Đông, kể từ khi tàu ngầm lớp Kilo của Trung Quốc hoạt động tại vùng biển này, theo như báo chí đưa tin.

Được các nhà bình luận hải quân phương Tây mệnh danh là "lỗ đen" của đại dương, tàu ngầm lớp Kilo được trang bị các thiết bị giảm âm thanh tuyệt vời, như thân tàu được bọc lớp « ngói chống dội âm » để hấp thụ các sóng âm. Nhưng đây không phải là loại tàu ngầm duy nhất có tính năng này bởi vì tàu ngầm của hải quân các nước Đông Nam Á khác, nếu như không hoàn hảo hơn, thì cũng có khả năng hoạt động « tĩnh lặng » tương tự.

Tầu ngầm lớp Kilo của Việt Nam không nổi tiếng vì được trang bị hệ thống động cơ đẩy khí độc lập, giống như các tàu của Singapore, cho phép kéo dài thời gian lặn mà không cần phải nổi lên mặt nước, do vậy, được xếp cùng loại như các tàu của Indonesia và Malaysia. Nhìn chung, tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam được trang bị các hệ thống vũ khí tương đương như các loại tàu đang hoạt động trong khu vực. Đáng chú ý là hệ thống phóng ngư lôi Klub-S của tàu ngầm, mà Việt Nam được cung cấp, như là một phần trong hợp đồng năm 2009.

Tên lửa Klub có các biến thể : Tên lửa đối hạm (với hướng dẫn radar) và tên lửa đối địa (với hệ dẫn hướng quán tính). Loại tên lửa đối địa này là đáng chú ý. Cho đến nay, không có hải quân của nước Đông Nam Á nào có khả năng từ một căn cứ ảo như tầu ngầm, thực hiện một cuộc tấn công từ xa, trên biển, vào mục tiêu trên đất liền, qua đó, cho phép kín đáo mở rộng tầm hỏa lực vào đến nội địa một nước khác. Đây có thể là nguồn gốc tiềm tàng gây bất ổn định cho tình hình trong khu vực hiện đang mong manh.

Trong tháng Bẩy năm 2011, Rosoboronexport – công ty xuất khẩu vũ khí chính của Nga – cho biết, số tàu ngầm lớp Kilo bán cho Việt Nam có thiết kế “chuẩn – standard” và tên lửa Klub-S được cung cấp cùng với tàu ngầm cũng là những biến thể “chuẩn”. Điều này có thể được hiểu rằng đó là loại biến thể của tên lửa đối hạm. Nếu như vậy, thì đây không phải là một khả năng quân sự hoàn toàn mới mẻ gì trong khu vực, kể từ khi tàu ngầm lớp Scorpenes của Malaysia có khả năng tương đương, với loại tên lửa Exocet SM-39 của Pháp, và tàu ngầm lớp Kilo của Trung Quốc và Ấn Độ cũng được trang bị các biến thể của tên lửa đối hạm Klub-S.

Các thách thức đối với Hải quân Việt Nam

Do không phải là tác nhân làm thay đổi cán cân sức mạnh hải quân trong khu vực, tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam không tạo ra một sự thay đổi cơ bản trong cân bằng sức mạnh hải quân tại đây.
Có lẽ, việc mua tàu ngầm chứng tỏ ý định của Việt Nam muốn có được đầy đủ khả năng tác chiến dưới đáy biển như là một phần trong tổng thể các nỗ lực, không phải chỉ để điều chỉnh lại sự yếu kém vốn có trong hạm đội hải quân cũ kỹ từ thời Liên Xô, mà còn có được một lực lượng hải quân « cân bằng ». Quyết định mua không phải là ít mà tới sáu tầu ngầm lớp Kilo cho thấy ý muốn có một lực lượng tầm cỡ đủ khả năng tác chiến, để hải quân có thể tiếp tục hiện diện trên biển, điều này sẽ khó thực hiện nếu chỉ có một hạm đội nhỏ bé.

Nhận định này được củng cố khi nhìn vào các nỗ lực phối hợp của Việt Nam không chỉ muốn mua các thiết bị máy móc, mà còn muốn xây dựng hạ tầng và đào tạo nhân sự. Trong năm 2010, theo tin báo chí, Hà Nội đã tìm kiếm sự giúp đỡ của Nga để xây dựng các cơ sở cho tàu ngầm ở vịnh Cam Ranh, trong khi gần đây, Việt Nam đã ký với Ấn Độ một thỏa thuận đào tạo đoàn thủy thủ cho tàu ngầm lớp Kilo. Cũng có thể nhận thấy việc phát triển song song như vậy trong trường hợp của các lực lượng tàu ngầm khác trong khu vực, như Malaysia và Singapore.

Mặc dù có chương trình phát triển tàu ngầm, Hải quân Việt Nam vẫn còn phải lấp một số khoảng trống liên quan đến các khả năng quan trọng khác, như theo dõi trên biển, khả năng hải quân hiện diện lâu dài tại các khu vực được coi là mối quan tâm quốc gia, như Biển Đông. Với tất cả sáu tàu ngầm lớp Kilo được đưa vào hoạt động năm 2018, ngay từ bây giờ, Việt Nam nên xem xét thăm dò khả năng cứu trợ tàu ngầm và hợp tác với hải quân các nước trong khu vực về lĩnh vực này.

Xây dựng đầy đủ các khả năng trong lĩnh vực tàu ngầm với các cơ sở sẵn sàng tác chiến, thủy thủ đoàn có năng lực và đưa ra một học thuyết xác đáng đòi hỏi phải có thời gian. Xét cho cùng, điều này không chỉ phụ thuộc vào quyết tâm chính trị, mà còn vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

(Koh Swee Lean Collin là nghiên cứu viên của Học viện Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược, một bộ phận trong Trường Nghiên cứu Quốc tế Rajaratnam (RSIS), thuộc Đại học Công nghệ Nanyang. Tác giả đang làm luận án tiến sĩ nghiên cứu chủ yếu về chương trình hiện đại hóa hải quân trong khu vực Đông Nam Á).

http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20120908-tau-ngam-lop-kilo-cua-viet-nam-va-tuong-quan-hai-quan-trong-khu-vuc


=====000=====


TÀU NGẦM NGA TẠI VIỆT NAM
Đức Tâm
22-8-2012

Tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân Algeri (nguồn: fr.wikipedia.org)
Tàu ngầm lớp Kilo của Hải quân
Algeri (nguồn: fr.wikipedia.org)
Việt Nam sẽ nhận được chiếc tàu ngầm lớp Kilo đầu tiên trong năm 2012. Trên tạp chí của Học viện Hải quân Hoa Kỳ (USNI), ngày 21/08/2012, giáo sư Carlyle A. Thayer có bài phân tích hiệu quả của hạm đội tàu ngầm trong việc bảo vệ biển đảo của Việt Nam. Sau đây là bản dịch.

Ngày 15/08/2012, báo Thanh Niên đã đưa tin là Việt Nam sẽ nhận chiếc tàu ngầm lớp Kilo đầu tiên vào cuối năm nay. Việt Nam còn đặt hàng 5 tàu ngầm Kilo khác và dự kiến sẽ tiếp nhận mỗi năm một chiếc. Theo Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Việt Nam sẽ phát triển một hạm đội tàu ngầm hiện đại trong 5-6 năm tới (2016-2017).


Trong cuối những năm 1980, Việt Nam đã tìm cách mua chiếc tàu ngầm đầu tiên từ Liên Xô. Đoàn thủy thủ được lựa chọn và được đào tạo trên chiếc tàu ngầm diesel Project 641 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô. Chương trình này đã bị tổng bí thư Mikhail Gorbachev đình chỉ vì lo ngại làm cho Trung Quốc bực tức. Với sự sụp đổ của Liên Xô, hy vọng của Việt Nam có được tàu ngầm đã không thành hiện thực.

Trong thỏa thuận đổi gạo lấy vũ khí, năm 1997, Việt Nam đã mua hai chiếc tàu ngầm loại nhỏ, lớp Yugo của Bắc Triều Tiên. Các tàu này neo đậu tại Vịnh Cam Ranh để tu sửa. Trong 13 năm sau đó, các nhà phân tích không biết rõ khả năng hoạt động của các con tàu này. 

Tháng Giêng 2010, báo Tuổi Trẻ đã tiết lộ nhiều về sự tồn tại của M96, một đơn vị tàu ngầm bí mật của Việt Nam, với bức ảnh chụp chiếc tàu ngầm Yugo và đoàn thủy thủ. Các tàu ngầm Yugo đã được sử dụng cho các hoạt động dưới đáy biển. Theo một tùy viên quân sự phương Tây ở Matxcơva, "Kinh nghiệm từ tàu ngầm loại nhỏ cung cấp nền tảng cơ bản cho sự hiểu biết các hoạt động tàu ngầm và bảo trì."

Mong muốn của Việt Nam có được một chiếc tàu ngầm với kích cỡ thông thường đã tăng lên rõ rệt vào năm 1997 sau chuyến thăm cảng Cam Ranh của tàu ngầm Nga Project 636 lớp Kilo. Năm 2000, các thông tin, không được xác nhận, cho biết là Việt Nam và Nga đã ký biên bản ghi nhớ liên quan đến khả năng bán tàu ngầm. Cũng trong năm đó, Việt Nam và Ấn Độ đã ký một thỏa thuận quốc phòng trong đó có một điều khoản liên quan đến việc hải quân Ấn Độ đào tạo thủy thủ cho Việt Nam, kể cả thủy thủ tàu ngầm.

Bối cảnh

Trong tháng 10/2002, Việt Nam đã yêu cầu Ấn Độ đào tạo về tàu ngầm, nhưng bốn năm sau, Ấn Độ mới thông báo bắt đầu đào tạo các sinh viên sĩ quan và sĩ quan hải quân Việt Nam. Hiện nay Ấn Độ đang huấn luyện các quy trình thoát hiểm ở tàu ngầm cho các thủy thủ Việt Nam.

Năm 2008 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng. Việt Nam không thành công trong việc tìm cách mua tàu ngầm kích cỡ thông thường từ Serbia. Sau đó, Việt Nam quay sang Nga và đã đạt được một thỏa thuận nguyên tắc để mua 6 tàu ngầm Project 636M lớp Kilo. Trong năm 2008, bộ trưởng Quốc phòng và chủ tịch nước Việt Nam đã có các chuyến công du Matxcơva để thúc đẩy thỏa thuận này.

Trong năm 2009, các nguồn tin từ giới công nghiệp Nga đã được công khai. Ngày 24/04, ông Vladimir Aleksandrov, tổng giám đốc Admiralteiskie Verfi (Nhà máy đóng tàu Admiralty) ở St Petersburg, thông báo là công ty của ông đã được chỉ định thực hiện hợp đồng chế tạo 6 tàu ngầm Project 636 lớp Kilo. Giá mỗi chiếc tàu ngầm này là 300-350 triệu đô la và tổng giá trị hợp đồng là 1,8 – 2,1 tỷ đô la.

Hợp đồng chính thức mua 6 tàu ngầm lớp Kilo đã được ký kết tại Matxcơva giữa công ty xuất khẩu vũ khí Nga Rosoboronexport và bộ Quốc phòng Việt Nam, trong tháng 12/2009. Tổng thống Nga Vladimir Putin và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chứng kiến lễ ký kết. Nhà máy Admiralty bắt đầu đóng chiếc tàu ngầm đầu tiên trong số 6 chiếc, trong lễ khởi công ngày 24/08/2010. Tàu ngầm này được hạ thủy ngày 28/08/2012, và trải qua một loạt thử nghiệm trên biển trước khi chuyển giao cho Việt Nam.

Hợp đồng bán mua tàu ngầm Nga-Việt Nam cũng bao gồm các điều khoản - ngoài việc cung cấp 6 tàu ngầm – liên quan đến việc đào tạo thủy thủ đoàn và xây dựng một cơ sở bảo trì trên bờ. Trong tháng 3/2010, Việt Nam chính thức yêu cầu Nga giúp đỡ xây dựng một căn cứ tàu ngầm ở vịnh Cam Ranh.

Tàu ngầm Project 636M – lớp Kilo

Tàu ngầm Project 636M chính là loại tàu ngầm lớp Varshavyanka của Nga, nhưng nó được biết đến nhiều hơn theo phân loại lớp Kilo mà NATO đưa ra. Kilo là một loại tàu ngầm phi hạt nhân tấn công nhanh (SSK). Nó có thể thực hiện các nhiệm vụ sau đây: Chống tàu ngầm và tàu chiến, bảo vệ duyên hải, rải thủy lôi, trinh sát và tuần tra.

Việt Nam đã đặt mua loại tàu 636MV mới nhất, được cải tiến, với phạm vi hoạt động, tốc độ, sự chắc chắn, độ bền vững, các đặc tính âm thanh, tiếng động và hỏa lực đều tốt hơn so với phiên bản trước đó.

Tàu ngầm Project 636 lớp Kilo đã được Hải quân Mỹ mệnh danh là "lỗ đen" do mức độ tĩnh lặng của nó khi hoạt động. Khả năng tàng hình của tàu ngầm Project 636 đã được cải tiến qua việc loại bỏ các van của khoang chứa nước và thân tàu được phủ nhiều lớp “ngói cao su” chống dội âm. Các lớp “ngói” này được gắn vào phần thân tàu và cánh ngầm nhằm hấp thụ sóng âm chủ động, qua đó, làm giảm và bóp méo các tín hiệu phản hồi. Các lớp “ngói chống dội âm” cũng ngăn chặn âm thanh phát ra từ trong tàu, làm giảm khả năng bị phát hiện bởi sóng âm thụ động.

Tàu ngầm lớp Kilo cải tiến dài 73,8 mét (242 ft), rộng 9,9 m (32,4 ft), với mức mớn nước là 6,2 m (20,34 ft). Lượng choán nước khi nổi là 2.350 tấn và có thể lặn sâu đến một phần tư dặm. Tàu lớp Kilo cải tiến được trang bị động cơ diesel-điện, có phạm vi hoạt động 9.650 km (5.996 dặm) và có thể lặn liên tục 700 km (434 dặm), với tốc độ 2,7 hải lý (5 km / giờ) ở tốc độ thấp, yên tĩnh. Tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải lý (37 km / giờ). Việt Nam dường như đã không chọn loại tàu trang bị hệ thống Air Propulsion độc lập có thể cho phép kéo dài thời gian hoạt động tuần tra. Thủy thủ đoàn của tàu lớp Kilo cải tiến có 57 người.

Tàu ngầm Project 636MV có 6 ống phóng ngư lôi 533 mm ở phía trước. Nó có thể mang tới 18 thủy lôi (6 nạp trong ống và 12 trên dàn phóng ) hoặc 24 thủy lôi ( mỗi ống có 2 quả và 12 quả trên dàn ). Hai trong số các ống phóng ngư lôi được thiết kế để điều khiển từ xa việc phóng ngư lôi với độ chính xác rất cao. Tàu lớp Kilo cải tiến cũng có thể bắn chặn tên lửa hành trình chống tàu với ống phóng ngư lôi. Tàu lớp Kilo cũng mang tên lửa phòng không MANPADS Strela-3.

Trong tháng 6/2010, có tin nói rằng tổng chi phí hợp đồng mua tàu ngầm của Việt Nam đã tăng từ ước tính ban đầu là 1,8 – 2,1 tỷ đô la lên thành 3,2 tỷ đô la. Các chi phí bổ sung bao gồm cả việc trang bị vũ khí và xây dựng cơ sở hạ tầng. Nguồn tin công nghiệp quốc phòng cho biết là các tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam sẽ được trang bị loại ngư lôi 53-56 hoặc loại TEST 76 hạng nặng. Nguồn tin này cũng dự đoán rằng tàu lớp Kilo của Việt Nam sẽ được gắn tên lửa chống tàu chiến, như 3M-54E hoặc 3M-54E1. Trong tháng 7/2011, ông Oleg Azizov, đại diện của công ty Rosoboronexport, khẳng định, Việt Nam sẽ nhận được loại tên lửa chống tàu chiến Novator Club-S (SS-N-27), với tầm bắn xa 300 km.

Môi trường hoạt động

Việt Nam mua tàu ngầm lớp Kilo phục vụ các hoạt động trong vùng nước tương đối nông ở Biển Đông. Khi được đưa vào hoạt động, tàu ngầm sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực giám sát các hoạt động của tàu thuyền bán quân sự nước ngoài và các tàu hải quân ở vùng biển ngoài khơi miền duyên hải Việt Nam và các vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, các tàu ngầm lớp Kilo sẽ tạo phương tiện răn đe chống lại khả năng Trung Quốc có ý định nhanh chóng đánh chiếm một hòn đảo hoặc bãi đá mà Việt Nam chiếm giữ ở Biển Đông. Tổng quát hơn, tàu lớp Kilo sẽ cung cấp một khả năng chống tiếp cận khu vực, tuy khiêm tốn nhưng đủ mạnh, trước sự đe dọa của các tàu chiến của Hải quân Trung Quốc.

Trước khi có được những khả năng này, Việt Nam sẽ phải hội nhập được số tàu ngầm lớp Kilo này vào trong cơ cấu lực lượng quân sự và vào quá trình chuyển đổi lực lượng chiến đấu trên hai phương diện (trên mặt nước và trên không) sang ba phương diện (trên không, trên mặt nước và dưới mặt nước). Việt Nam cũng sẽ phải tìm kinh phí để bảo trì và sửa chữa cho phép các tàu lớp Kilo có thể hoạt động, và phát triển khả năng cứu hộ tàu ngầm. Các nhà phân tích công nghiệp quốc phòng dự báo là việc sử dụng và khai thác có hiệu quả loại tàu ngầm Kilo của Việt Nam sẽ ở trình độ nằm giữa Singapore và Indonesia. Các nhà phân tích này cho rằng việc Việt Nam phát triển một hạm đội tàu ngầm thực sự hiện đại trong những năm tới phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ lâu dài của Nga và Ấn Độ.

(Carlyle A. Thayer là giáo sư danh dự về chính trị học, Đại học New South Wales tại Học viện Quốc phòng Úc, Canberra)

http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20120822-tau-ngam-nga-tai-viet-nam


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét