10-12-2012
Photo: Rex Features/The Guardian |
"...muốn có nhân quyền và muốn nhân quyền được thực thi, bảo vệ thì không thể từ chối xây dựng một nhà nước có nền tảng thượng tôn pháp luật.
Muốn có thượng tôn pháp luật không thể từ chối việc chấp nhận một hệ thống tư pháp, kiểm sát và cảnh sát phải độc lập tối thiểu với tất cả các đảng chính trị, đặc biệt là đảng đang cầm quyền.
Nếu những qui luật tất yếu này không được chấp nhận thì tất cả mọi cam kết rõ ràng nhất, hùng hồn nhất trong việc thực thi nhân quyền đều chỉ là những ngôn từ mỵ dân, lừa dối."
Các nhận thức này không chỉ có
nghĩa là bản thân pháp luật phải tuân thủ nguyên tắc tối cao nhằm bảo vệ nhân quyền
mà còn có nghĩa rằng chính bản thân các cơ quan, tổ chức và nhân viên của nhà
nước, chính phủ cũng phải bị ràng buộc trách nhiệm trước pháp luật. Chỉ như thế,
nhân quyền mới có thể được bảo vệ một cách hợp pháp và các biện pháp sửa chữa
các xâm hại nhân quyền mới có thể tồn tại và công hiệu.
Thiếu vắng thượng tôn pháp luật,
người dân sẽ thường xuyên phải sống trong sự bấp bênh, sợ hãi do thiếu một an
ninh tối thiểu cho cuộc sống bình thường.
Hệ thống đảm bảo công lý trong một
xã hội chính là yếu tố quyết định cho sự hiện diện và hiệu lực của thượng tôn
pháp luật. Hệ thống đó bao gồm ba bộ phận (thiết chế): cảnh sát (police), kiểm
sát (công tố, prosecution) và các cơ chế, chức năng tư pháp (judiciary)[ii]. Sự vận hành của
các chức năng đó sẽ ảnh hưởng tới sự đáp ứng của hệ thống bảo vệ công lý trước
nhu cầu của xã hội. Nếu hệ thống đó có khả năng đáp ứng một cách thỏa đáng thì
nguyên tắc thượng tôn pháp luật trong xã hội đó đã được thực thi hiệu quả.
Có thể nói thượng tôn pháp luật
và nhân quyền là hai mặt của một đồng xu. Nếu thượng tôn pháp luật được bảo đảm
thì nhân quyền được bảo vệ. Ngược lại, khi nhân quyền thiếu hụt hay bị chà đạp
thì tức là thượng tôn pháp luật đã bị lơ là hoặc bị gạt bỏ. Nói cách khác, nếu
cổ xúy nhân quyền hay cam kết nhân quyền mà không thực thi tinh thần thượng tôn
pháp luật thì đó chỉ là những cổ xúy suông hoặc chỉ là những cam kết dối trá, lừa
bịp. Vì vậy, cuộc đấu tranh để giành lấy nhân quyền không thể tách rời cuộc đấu
tranh xây dựng một xã hội tôn trọng và thực thi thượng tôn pháp luật. Tinh thần
này cũng được thể hiện qua phát biểu của ông Tổng thư ký Liên hợp quốc, Kofi
Annan, vào ngày 21/09/2004:
“Chúng ta phải bắt đầu từ một
nguyên tắc nền tảng rằng không có ai ở trên pháp luật và không có ai không được
pháp luật bảo vệ. Tất cả mọi quốc gia đã tuyên bố thực thi thượng tôn pháp luật
ở trong nước thì buộc phải tôn trọng nguyên tắc này ở ngoài nước và mọi quốc
gia đã khẳng định thực thi ở ngoài nước thì buộc phải tuân thủ ở trong nước.
Đúng vậy, thượng tôn pháp luật phải bắt đầu ngay từ mỗi quốc gia.”[iii]
Vai trò của cảnh sát
Nhân quyền chỉ có thể được bảo vệ
khi thượng tôn pháp luật được thực thi thường trực và phổ biến, do đó luôn có một
liên hệ khăng khít giữa thái độ của lực lượng cảnh sát với tình trạng vi phạm
nhân quyền trong một xã hội. Nếu cảnh sát từ chối ghi nhận, lập hồ sơ về các
khiếu nại, phàn nàn về hối lộ, sách nhiễu, nếu cảnh sát lại tạo ra các cáo buộc
vu khống cho người khác hoặc nếu cảnh sát lại đe dọa tính mạng, tự do của những
người muốn đấu tranh vì công lý thì tức là cảnh sát không chỉ đang xâm hại các
nhân quyền của công dân mà còn đang biến cả hệ thống bảo vệ công lý thành một hệ
thống lừa dối, vi phạm nhân quyền.
Bổn phận hàng đầu của cảnh sát phải
là ngăn chặn, điều tra tội ác và bảo vệ các quyền của công dân trong sự tuân thủ
nghiêm ngặt đúng theo pháp luật. Việc không thực hiện các bổn phận này chính là
một nguyên nhân lớn của các vi phạm nhân quyền và chính là một tội ác.
Bắt giữ, giam cầm trái phép và
tra tấn người dân là những biểu hiện thường thấy của vi phạm nhân quyền trong
giới cảnh sát. Ngoài ra, giới cảnh sát còn vi phạm nhân quyền bằng cách không
tuân thủ qui trình pháp lý, cố ý làm sai lệch hồ sơ để che giấu tội phạm của
chính bản thân hoặc của các thân hữu, kẻ mua chuộc. Biết và hiểu được các vi phạm
nhân quyền thường có của giới cảnh sát cũng tức là để người dân hoặc chính giới
cảnh sát có thể phòng ngừa, đấu tranh hữu hiệu chống lại các vi phạm nhân quyền
của giới cảnh sát.
Một trong những bước đầu tiên và
dễ dàng nhất để dân chúng đấu tranh với các vi phạm nhân quyền của giới cảnh
sát là thu thập dữ liệu, lập hồ sơ một cách đầy đủ và hệ thống về các vụ việc lạm
dụng, xâm phạm quyền công dân của giới cảnh sát và công khai các dữ liệu đó cho
công luận biết. Cho dù việc lập dữ liệu, hồ sơ hệ thống, công khai không thể có
hiệu quả ngay trong việc ngăn chặn, trừng phạt các xâm phạm nhân quyền của giới
cảnh sát nhưng nó có tác dụng rất tốt trong việc cảnh báo các nhân viên cảnh
sát và người thân của họ về những hành vi gây tội ác đối với con người đồng thời
sẽ có tác dụng lâu dài trong việc huy động sự đoàn kết, ủng hộ của xã hội trong
cuộc đấu tranh chung chống lại các vi phạm nhân quyền.
Vai trò của kiểm sát
Cơ quan kiểm sát là cơ quan có
trách nhiệm đảm bảo mọi pháp luật phải được thực thi một cách đúng đắn và đầy đủ.
Khi có bất cứ điều luật nào bị xâm phạm hoặc có bất kỳ tội ác nào xảy ra, kiểm
sát phải đảm bảo qui trình điều tra, tìm hiểu được diễn ra theo đúng các trình
tự do pháp luật qui định và đảm bảo cuối cùng công lý phải được thực hiện. Vai
trò của cơ quan kiểm sát đặc biệt quan trọng khi pháp luật bị xâm hại bởi chính
các nhân viên thực thi pháp luật, các viên chức chính phủ - những người được
giao nhiệm vụ bảo vệ các quyền công dân.
Do đó, để cơ quan kiểm sát có thể
đảm bảo cho pháp luật luôn được tuân thủ, cơ quan này buộc phải là một thiết chế
độc lập, đặc biệt không được liên đới, chịu điều khiển hay bị ràng buộc với các
tổ chức chính trị, cơ quan nhà nước hay các cơ quan tố tụng khác.
Các kiểm sát viên (công tố viên)
bắt buộc phải độc lập - không chịu sự điều khiển hay ảnh hưởng của bất kỳ một đảng
phái hay tổ chức xã hội nào - và phải không thiên vị (trung lập) – không được
là thành viên của bất kỳ đảng phái hay nhóm, tổ chức xã hội nào và chỉ phán xét
dựa theo pháp luật và lương tâm. Tính chất độc lập và không thiên vị (trung lập)
của họ đặc biệt quan trọng và cần thiết trong những vụ việc xâm phạm pháp luật
do lực lượng thực thi pháp luật hay các viên chức chính phủ gây ra. Khi kiểm
sát viên (công tố viên) không còn giữ được tính chất độc lập và không thiên vị
(trung lập), điều đó đồng nghĩa với việc họ sẽ là những người có khả năng rất lớn
trong việc lạm dụng, phá hoại pháp luật.
Điều tra tội phạm và thu thập chứng
cứ là những chức năng tối quan trọng để có thể truy tố được thủ phạm. Vì vậy,
cơ quan kiểm sát không chỉ phải độc lập mà còn phải có trách nhiệm và đủ khả
năng giám sát nghiêm ngặt quá trình điều tra một vụ việc – thường, trước tiên,
do cảnh sát tiến hành.
Vì cảnh sát thường là lực lượng
điều tra trước tiên, một chức năng quan trọng khác của kiểm sát là phải đảm bảo
nếu có sự đe dọa chống lại nạn nhân và người làm chứng thì những kẻ đe dọa phải
bị trừng phạt.
Chỉ cần nhìn vào mức độ độc lập
và khả năng, trách nhiệm của một cơ quan kiểm sát có thể khẳng định được mức độ
tôn trọng, tuân thủ nguyên tắc thượng tôn pháp luật của một thể chế chính trị.
Hệ thống tư pháp là nơi cuối cùng
công dân có thể tìm đến để kêu cứu công lý, đặc biệt trong trường hợp các cơ
quan hay nhân viên nhà nước vi phạm quyền của họ. Vì vậy, nếu một hệ thống tư
pháp không quan tâm tới nhân quyền và/hoặc tham gia vào việc lạm dụng quyền lực
thì đó là một trở ngại hết sức nghiêm trọng đối với việc thực thi nhân quyền
trong một xã hội.
Do đó, hệ thống tư pháp cũng cần
phải độc lập. Tính chất độc lập của hệ thống tư pháp bắt nguồn từ triết lý phân
chia quyền lực (separation of powers): tam quyền phân lập giữa ba nhánh quyền lực
cơ bản của một nhà nước (hành pháp, lập pháp và tư pháp). Ba quyền lực đó phải
được tách rời theo nghĩa không được để cho một lực lượng duy nhất nào khống chế,
chỉ đạo hay ảnh hưởng trong quá trình thiết lập quyền lực và thực thi quyền lực,
cũng như không được để ba quyền lực đó câu kết với nhau trong việc ra quyết định.
Nguyên tắc này cho phép tạo ra một hệ thống (cơ chế) có tính chất “kiểm soát và
cân bằng” (checks and balances) thường trực và tự động để ngăn chặn, giảm thiểu
mọi lạm dụng quyền lực rất có thể và rất thường xảy ra đối với các cá nhân và
các cơ quan nắm quyền lực công.
Sự phân quyền và tính chất độc lập
đó là nền tảng cơ bản tối thiểu để có một hệ thống tư pháp hữu hiệu trong việc
duy trì và bảo vệ thượng tôn pháp luật và nhân quyền. Không có thượng tôn pháp
luật sẽ không có thực thi nhân quyền.
Trong bất cứ xã hội hiện đại nào,
vai trò của hệ thống tư pháp cũng là việc bảo vệ nhân quyền bằng cách đảm bảo
cho mọi vụ việc tố tụng được diễn ra đúng qui trình pháp luật (due process) và
đạt được các giải pháp sửa chữa các vi phạm pháp luật, các vi phạm nhân quyền một
cách kịp thời và hiệu quả. Vai trò này chỉ có thể được thực hiện bằng sự vận
hành hoàn toàn độc lập của hệ thống tư pháp, với các quyết định chỉ dựa trên
hai trụ cột: các nguyên tắc pháp luật và sự phán xét duy lý không thiên vị.
Tính chất độc lập hệ trọng của tư
pháp đòi hỏi hệ thống này phải có khả năng hoạt động thoát khỏi mọi ảnh hưởng của
chính phủ hoặc các cơ quan khác thuộc hệ thống quyền lực công. Đòi hỏi này thường
cần phải được minh định rõ ràng trong hiến pháp hoặc trong các văn bản pháp luật
khác.
Đồng thời với tính chất độc lập của
toàn hệ thống, các thẩm phán cũng phải được đảm bảo khả năng độc lập trong khi
thực thi trách vụ. Hai tính chất độc lập này có mối quan hệ gắn chặt gần như đồng
thuận với nhau. Nếu hệ thống tư pháp không độc lập thì rất ít cơ may để có các
thẩm phán hoạt động độc lập.
Cả hai tính chất độc lập vừa kể
nhằm tạo cho và đòi hỏi các thẩm phán một khả năng đảm bảo các thủ tục tư pháp
luôn được thực thi một cách công bằng và quyền lợi của tất cả các bên liên quan
luôn được xem xét và tôn trọng như nhau.
Cả hai tính chất độc lập nói trên
cũng nhằm bảo đảm để hệ thống tư pháp luôn bị buộc trách nhiệm trước dân chúng.
Điều này hết sức hệ trọng đối với các thành viên cao cấp của hệ thống tư pháp
như chánh án tối cao hoặc những chánh án của các tòa án cao nhất của một vùng.
Cách thức bổ nhiệm hay kỷ luật
các nhân viên của hệ thống tư pháp cũng có ảnh hưởng hết sức hệ trọng tới phẩm
chất của hệ thống tư pháp. Việc bổ nhiệm, đề bạt, bãi nhiệm hay kỷ luật các thẩm
phán chỉ được dựa trên ba (03) yếu tố: phẩm chất nghề nghiệp, uy tín và liêm
chính cá nhân. Ngoài ra không được dựa vào bất cứ yếu tố, ảnh hưởng nào khác để
đánh giá phẩm chất các thẩm phán, các nhân viên tư pháp. Những cơ sở đó cũng phải
được áp dụng y hệt trong việc cung cấp phương tiện, điều kiện làm việc (vật chất,
tài chính, tinh thần) và đảm bảo ổn định chức vụ cho các nhân viên tư pháp. Chỉ
khi đó các nhân viên tư pháp, các thẩm phán mới có thể yên tâm thực thi trách vụ,
phán xét công lý chỉ dựa vào pháp luật và lý trí cùng lương tâm không thiên vị.
Một khác biệt cơ bản trong các thể chế chính trị trên thế giới hiện nay không phải ở vấn đề có hay không có sự hiện diện của hệ thống tư pháp mà là ở mức độ và việc có hay không có tính chất độc lập của hệ thống hết sức hệ trọng này.
Một khác biệt cơ bản trong các thể chế chính trị trên thế giới hiện nay không phải ở vấn đề có hay không có sự hiện diện của hệ thống tư pháp mà là ở mức độ và việc có hay không có tính chất độc lập của hệ thống hết sức hệ trọng này.
Cam kết
Một biểu ngữ do chính quyền treo tại Hà Nội ngày 09/12/2012 |
Vào ngày 10/12/1948 loài người lần
đầu tiên đã có một tuyên bố chung về các quyền con người – nhân quyền – cơ bản.
Đó là Tuyên
ngôn toàn Thế giới về Nhân quyền của Liên hợp quốc.[v]
Ngày hôm nay, gần như tất cả các
chính quyền trên thế giới đều đã phải tự cam kết chấp thuận và thực thi Tuyên
ngôn toàn Thế giới về Nhân quyền. Không có một chính quyền nào phản đối việc thực
thi nhân quyền.
Nhưng muốn có nhân quyền và muốn
nhân quyền được thực thi, bảo vệ thì không thể từ chối xây dựng một nhà nước có
nền tảng thượng tôn pháp luật. Muốn có thượng tôn pháp luật không thể từ chối
việc chấp nhận một hệ thống tư pháp, kiểm sát và cảnh sát phải độc lập tối thiểu
với tất cả các đảng chính trị, đặc biệt là đảng đang cầm quyền. Nếu những
qui luật tất yếu này không được chấp nhận thì tất cả mọi cam kết rõ ràng
nhất, hùng hồn nhất trong việc thực thi nhân quyền đều chỉ là những ngôn từ mỵ
dân, lừa dối.○
[i] Rule of law:
đây là một thuật ngữ trong lĩnh vực pháp lý và quản lý nhà nước theo cách dân
chủ, có nguồn gốc từ phương Tây, đặc biệt trong các nước sử dụng Anh ngữ. Thuật
ngữ này nhằm nói đến một hệ thống nhiều ý niệm với tinh thần cốt lõi là coi
pháp luật là tối cao. Có nhiều cách dịch rule of law ra tiếng Việt. Trong bài
viết này chúng tôi chọn cách dịch là “thượng tôn pháp luật”.
[ii] Thực ra trong
đa phần các cấu trúc tư pháp (judiciary) của hệ thống nhà nước dân chủ
đã bao gồm cả chức năng “công tố” (kiểm sát). Ở đây chúng tôi muốn tách rõ
hai bộ phận “công tố” (kiểm sát) và “tư pháp” ra một cách riêng rẽ để
cho dễ hiểu hơn đối với những độc giả chưa quen với các vấn đề tổ chức nhà nước
hiện đại, nhất là cách phân chia này lại dễ so sánh với hệ thống hiện tồn ở Việt
Nam.
[iii] “We must start
from the principle that no one is above the law, and no one should be denied
its protection. Every nation that proclaims the rule of law at home must
respect it abroad; and every nation that insists on it abroad must enforce it
at home. Yes, the rule of law starts at home.” - New
York, 21 September 2004 - Secretary-General's address to the
General Assembly.
[iv] Tư pháp: ở đây
chủ yếu nói đến các tòa án và các thẩm phán cùng các nhân viên có chức năng
tương đương.
Blog Như Cây Tre VN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét