Đặng Văn Sinh
(Nhân đọc bài Hoan
nghênh Quốc hội trả lại nhân quyền cho phụ nữ bán hoa của Luật gia Trần
Đình Thu, đăng trên trannhuong.com)
Cách đây gần năm mươi năm,
khi còn ngồi trên ghế nhà trường cấp 3 phổ thông, có một lần, trong buổi ngoại
khóa, chúng tôi được thầy Hoàng Bỉnh Nhu bình bài Tiếng hát sông Hương của
nhà thơ lớn Tố Hữu. Thầy bị cụt một tay, người chỉ được một mẩu, đuôi mắt trái
lại có mụn ruồi to đùng nhưng giảng văn thì cực hay. Dường như những khi đứng
trên bục giảng, thầy đã hóa thân vào tác phẩm, để rồi, trong phút xuất thần,
chuyển tải cái nhân sinh quan cộng sản của một ông râu xồm mãi bên trời Tây vào
con tim ngu ngơ của đám học trò nông thôn, quần âm lịch, chân đất, vốn chưa có
một chút khái niệm nào về loại nghề buôn phấn bán son.
Theo sự phân tích rất logic từ mỹ
học Marx – Lenin, thầy Nhu khẳng định, cô gái sông Hương là nạn nhân của chế độ
thực dân phong kiến, bị dày vò cả thể xác lẫn tâm hồn. Tuy nhiên, nỗi ô nhục ấy
sẽ mất đi, người con gái vướng vào kiếp nạn ê chề sẽ được hoàn lương một khi
Cách mạng vô sản thành công. Chân trời mới sắp mở ra. Những thân phận bọt bèo,
lạc loài sẽ được sống trong một xã hội công bằng, hạnh phúc, đầy hoa thơm quả
ngọt. Cả lớp lặng đi. Một vài bạn gái len lén lấy ống tay áo quệt nước mắt. Ôi
! Sức mạnh của nghệ thuật. Chúng tôi cảm phục thầy Nhu một thì cảm phục Tố Hữu
mười, bởi ông đã đem đến cho lớp trai trẻ dốt nát một cảm quan mới, một chân lý
sáng ngời trong chế độ XHCN tốt đẹp có Bác, Đảng dẫn đường.
Quả thật, bằng vào cái huyễn tượng
về một tương lai xán lạn ấy, sau năm năm tư, (1954) Nhà nước ta đã tiến hành những
cuộc tảo thanh trên quy mô lớn để bài trừ tận gốc những gì còn rơi rớt lại của
nền văn hóa thực dân phong kiến trên nửa phần đất nước mà điểm nhấn của nó là nạn
mại dâm. Các đối tượng hành nghề bị lực lượng công an thu gom đưa vào các nhà
tù trá hình được gán cho danh xưng mỹ miều là “Trại phục hồi nhân phẩm”. Tại
đây, những chị em “cải tạo” tốt còn được “ưu tiên” chuyển sang lực lượng thanh
niên xung phong hoặc nông trường quốc doanh trồng chè hay cao su ở vùng sơn cước.
Và thế là, chỉ sau một kế hoạch ba năm, ngành Lao động – Thương binh – xã hội
miền Bắc XHCN đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch triệt phá tệ nạn mại dâm. “Từ ấy”…
mảnh đất ngàn năm văn hiến được xem như tuyệt giống “gái bán hoa”!?. Thật là một
kỳ tích mà chỉ có những người thật sự yêu chủ nghĩa cộng sản mới làm được.
Cũng vào thời gian này, trên các
phương tiện tuyên truyền chính thống, trong đó có cả những tờ báo lớn công bố số
phụ nữ làm nghề mại dâm ở thành phố Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam cộng hòa là ba
mươi vạn!? Tất nhiên chúng tôi tin sái cổ. Lại dám không tin báo chí của Đảng
à? Có họa là tên phản động hoặc kẻ mắc chứng tâm thần phân liệt mới có đủ bản
lĩnh đặt dấu hỏi nghi ngờ. Sau này, khi non sông đã về một mối, các nguồn thông
tin không còn bị ách tắc như trước, tôi có đọc một bài trên mạng Đối thoại mới
hiểu con số ấy được người ta thổi phồng ít nhất là năm mươi lần. Theo tác giả
Nguyễn Ngọc Phách, tính vào thời điểm những năm sáu mươi, trừ cánh mày râu, cộng
với các bà già trên sáu mươi cùng các cháu gái dưới mười sáu tuổi, thì tất cả
phụ nữ Sài Gòn đều làm… điếm nếu ta tin vào con số kỷ lục nặng về màu sắc chính
trị kia.
Sau ba mươi bảy năm giải phóng miền
Nam, tức là một phần ba thế kỷ, một nửa đời người, có vẻ như những kỳ tích chống
tệ nạn xã hội đã đi vào dĩ vãng, đặt dấu chấm hết cho một thời vàng son. Chưa
bao giờ và chưa lúc nào nạn mại dâm hoành hành dữ dội và đều khắp như lúc này.
Không ít khách sạn tên tuổi với nhãn hiệu ba sao, thậm chí năm sao có hẳn một
đường dây gọi gái. Các nhà nghỉ thường kèm thêm dịch vụ “tươi mát”. Mỗi nhà
hàng karaoke đèn mờ là một động lắc thâu đêm suốt sáng. Mỗi tiệm hớt tóc, gội đầu
là một nhà thổ trá hình. Ngày trước “ra ngõ gặp anh hùng” thì ngày nay, mỗi khi
bước chân ra đường toàn gặp lũ tham nhũng và ca ve. Các Tú Ông, Tú Bà nhan nhản
khắp hang cùng ngõ hẻm, nhân danh thời mở cửa lại được các anh Hai, anh Ba, anh
Tư, anh Năm… ngồi ngất ngưởng trên cao bảo kê, tha hồ bóc lột đám chị em chân yếu
tay mềm. Đến lúc này, thi hào Tố Hữu, con chim đầu đàn của nền thơ cổ động Việt
Nam, nếu còn sống, chắc ông sẽ phải viết lại “Tiếng hát sông Hương”. Ta hãy
nghe lại tác giả thương hoa tiếc ngọc bằng một bài thơ kết hợp giữa lục bát
truyền thống với thể loại dân ca Huế và gieo bằng vần “eo”, tạo ra một không
gian nhẹ tênh, mang nét thanh thoát yêu kiều của sông Hương, đối lập hẳn với
thân phận nhục nhã của cô gái làng chơi:
Em buông mái
chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang
Rồi tấm lòng cộng sản vô bờ bến của
ông thương cảm người con gái đã hơn một lần lầm lỡ :
Thuyền em rách
nát
Mà em chưa chồng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!
Mà em chưa chồng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!
Nhưng điều đáng chú ý nhất là ông
phó chủ tịch HĐBT (Hội đồng Bộ trưởng) tương lai đã thổi vào tâm hồn cô gái một
ảo tưởng ngọt ngào, tạo cho cô niềm phấn khích vô bờ bến, nếu không bỏ nghề, dấn
thân vào sự nghiệp cách mạng thì cũng nhẫn nại đợi thời cơ đến ngày được chiêu
tuyết :
Ngày mai bao
kiếp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mở lòng ra đón ngày mai huy hoàng
Trên dòng Hương Giang…
Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mở lòng ra đón ngày mai huy hoàng
Trên dòng Hương Giang…
Hương Giang thơ mộng trong một
chiều tím biếc, con đò rách nát bồng bềnh trôi mang nỗi u uất cuả một thân phận
còn rách nát hơn cả nó, phút chốc như đốn ngộ bởi thứ ánh sáng lung linh của
chân lý. Nhà thơ thật khéo chuyển được cảm xúc, đem cái huyễn tưởng ngoài nghìn
dặm đặt vào tâm thức cô đào xứ Thần Kinh trong gang tấc.
Ngược lại với Tố Hữu lúc ấy, tám
mươi năm trước (nếu tính từ thời điểm những năm ba mươi của thế kỷ XX), Nguyễn
Công Trứ, cũng sau những lần xuôi đò trên sông Hương , đã không giấu giếm sự đắc
ý của mình cho dù ông là một nhà nho từng được đào luyện kỹ càng trong trường học
Khổng Mạnh:
Lênh đênh một
chiếc đò ngang
Một cô đào Huế, một quan đại thần
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn lần mần như ma
Ban ngày quan lớn như cha
Ban đêm quan lớn ngầy ngà như con…
Một cô đào Huế, một quan đại thần
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn lần mần như ma
Ban ngày quan lớn như cha
Ban đêm quan lớn ngầy ngà như con…
Chúng ta kính phục Nguyễn Công Trứ
dám nói thẳng nói thật tuy có chút mỉa mai, tự trào cái sự hành lạc với một cô
gái làng chơi dù có lúc ông là quan đầu triều. Hành vi của cụ Thượng hoàn toàn
tương phản với phần lớn các bậc “dân chi phụ mẫu” ngày nay, đi nhà thổ như
điên, bồ bịch tùm lum, ăn cắp công quỹ thành thần nhưng lại lên mặt đạo đức giả,
lúc nào cũng muốn nêu tấm gương “cần kiệm liêm chính”.
Sau những năm ép xác, nhịn thèm
nhịn nhạt phục vụ chủ thuyết “Thế giới đại đồng”, nay, xã hội Việt Nam đang ở
vào thời kỳ “ăn trả bữa”. Cái “thằng” quy luật tâm lý ấy lại lừng lững xuất hiện,
chẳng khác gì ma dẫn lối, quỷ đưa đường, dẫn dụ các nạn nhân của nó vào “kiếp
đoạn trường” trong một mê lộ quanh co đầy cạm bẫy. Chưa có bao giờ trên đất Việt
thân yêu của chúng ta lại nở rộ tệ nạn mại dâm như bây giờ. Nó hiện diện theo
quy luật của dòng nước lũ, từ lâu bị chặn lại, đương nhiên là tích tụ năng lượng,
đến một lúc nào đó tìm ra lối thoát, thế là “tức nước vỡ bờ” thành một cơn hồng
thủy. Hiện tượng này đã được nhà thơ Trần Nhuận Minh khái quát bằng mấy câu
trong bài “Thoáng” như sau :
Sách cấm xưa
lòe loẹt cổng Đền Thờ
Ngõ tối bật tiếng coóc xê tanh tách
Gã trốn tù tội đánh người và khoét ngạch
Vào quán ghểnh chân làm choác bia hơi.
Ngõ tối bật tiếng coóc xê tanh tách
Gã trốn tù tội đánh người và khoét ngạch
Vào quán ghểnh chân làm choác bia hơi.
Còn thi sỹ Nguyễn Trọng Tạo ở bài
“Quán Lý Thông” thì lại tiếp cận các cô gái “bán hoa” ở khía cạnh văn hóa:
Tôi hỏi ca ve,
ca ve cười ngất
Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
Hiển nhiên, mại dâm không chỉ dừng
lại ở thành phố, thị xã, thị trấn mà từ lâu nó đã lan đến cả những vùng quê hẻo
lánh. Các đức ông chồng mất nết, từ những lão già sáu bảy mươi đến lũ ranh con
miệng còn hơi sữa, rủ nhau thập thò trước quán cà phê hay hớt tóc trá hình vào
lúc trời còn nhập nhoạng. Không có tiền thì xúc trộm thóc của vợ bán dấm giúi,
thậm chí có anh chàng còn “ký sổ nợ” hẹn đến mùa thanh toán…
Cũng như nạn tham nhũng, mại dâm
bây giờ đã trở thành một thứ “văn hóa”. Loại “văn hóa” này hình như đang được
phát triển và nâng cao đến mức “đậm đà bản sắc ” tùy thuộc vào đẳng cấp xã hội
của các đấng mày râu. Các quan chức là những kẻ vừa có quyền vừa có tiền luôn
là “thượng đế” của những nhà chứa cao cấp. Có những ông lớn nuôi hẳn ba, bốn bồ
nhí ở mấy nơi khác nhau (tất nhiên là bằng tiền chùa), để thứ bảy, chủ nhật
đánh xe về thư giãn. Không hiếm các ông “đầy tớ của dân”, ban ngày thì lên diễn
đàn rao giảng đủ thứ đạo đức nhưng ban đêm lại mò vào các động mãi dâm lăn lóc
với “mấy ả mày ngài”, sáng ra mệt phờ râu trê, đến nỗi quên cả cuộc họp quan trọng
mà chính mình phải chủ trì.
Từ môi trường xã hội cởi mở để
con người thả lỏng bản tính của mình như vậy, tự nhiên hình thành một loại gái
điếm cao cấp mà cách hành xử của type người này có những lúc khá ngược đời như
nhà thơ Nguyễn Duy đã viết trong bài thơ “Việt Nam, nhìn từ xa tổ quốc” :
Điếm cấp thấp
bán trôn nuôi miệng
Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
Nên hạ giá linh hồn
Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
Nên hạ giá linh hồn
Loại “ca ve” này, tất nhiên không
chỉ bán phấn buôn son mà thực chất là bán buôn “cái gì đó” lớn hơn bằng “vốn tự
có” của mình. Chị em biết lợi dụng thời cơ, nắm chắc tâm lý các sếp sòng, triệt
để vận dụng lời dạy “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” của tổ sư Tú Bà,
để len vào bộ máy công quyền. Từ chiêu “mỹ nhân kế”, đã có không ít trường hợp
thành công, thậm chí còn được bổ nhiệm vào những chức vụ không nhỏ chút nào,
cho dù loại hình hoạt động duy nhất của chị em chỉ là… trên giường.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam chẳng
bao giờ công bố con số phụ nữ làm nghề mãi dâm, nhưng đến giờ này, theo những
nguồn tin của một vài tổ chức phi chính phủ thì có thể đã đến hàng chục vạn
(?). Phần lớn trong số này là những cô gái còn rất trẻ đều có gốc gác nông
thôn, thất học, không nghề nghiệp, bỏ nhà lên thành phố làm gái bán hoa, sau một
vài năm kiếm được chút vốn thì hoàn lương, về quê lấy chồng. Đây là đối tượng dễ
bị các Tú Ông, Tú Bà hành hạ, bóc lột nhất. Các cô thường xuyện bị chủ ăn quỵt
sau mỗi lần đi khách, nếu có biểu hiện phản ứng lập tức bị bọn ma cô, đầu gấu
“thượng cẳng chân hạ cẳng tay”, đành nhắm mắt buông xuôi mặc dòng đời đưa đẩy
cho đến lúc thân tàn ma dại. Cũng phải kể đến đội ngũ “ô sin” trong chương
trình xuất khẩu lao động sang Đài Loan. Một lượng không nhỏ người hầu gái này
chấp nhận hành nghề mãi dâm nhằm mục đích thu ngoại tệ qua các công ty môi giới.
Có trường hợp, một “Ô sin” buộc phải đáp ứng nhu cầu tình dục cho cả gia đình,
thậm chí, để giảm bớt chi phí, gã chủ nhà còn rủ thêm một vài anh hàng xóm
“đánh ké”. Tất nhiên họ không được ăn cả mà thường là phải chia năm sẻ bảy dưới
danh nghĩa “lệ phí” hoặc thuế cho các công ty lừa đảo núp dưới những cái tên rất
ấn tượng, mặc dù các khoản thu ấy chẳng bao giờ được chuyển vào ngân sách nhà
nước.
Loại mạt hạng nhất là dịch vụ lấy
chồng Tàu đại lục qua các tổ chức buôn bán phụ nữ đang hoành hành gần như công
khai từ hai chục năm qua. Không hiếm những nàng quá lứa nhỡ thì được bọn cò mồi
tân trang, qua biên giới bỗng nhiên thành đắt giá. Có điều rất ít trường hợp kiếm
được tấm chồng tử tế. Đa số các cô bị đưa đến những nơi xa xôi hẻo lánh vùng
dân tộc thiểu số, gá nghĩa với những “chàng rể” bất thành nhân dạng, trong một
môi trường sống vô cùng mông muội. Ngôn ngữ bất đồng, thân gái dặm trường, thậm
chí còn bị bán chuyền tay qua vài ba ông chủ để rồi cuối cùng lọt vào một nhà
chứa nào đó nơi đất khách, liệu còn có dám nghĩ đến ngày về cố hương?
Như trên đã nói, cũng như tệ tham
nhũng, mại dâm ở Việt Nam đã trở thành một thứ “văn hóa”, nếu nói theo các nhà
xã hội học, hay một thứ “công nghệ”, nếu nói theo thuật ngữ của các nhà kinh tế
học. Cái đáng bàn ở đây là Đảng và Nhà nước dứt khoát không thừa nhận. Kể cũng
đúng thôi. Nhà nước ta là nhà nước XHCN, lấy chủ nghĩa Marx – Lenin làm kim chỉ
nam. Thừa nhận loại hoạt động “đồi trụy” này thì còn gì là thể diện? Vì lẽ đó,
tuy là một thực thể tồn tại khách quan, là thị trường hoạt động rất sôi nổi và
đầy màu sắc, nhưng mại dâm bị vứt ra ngoài lề đường, sống vất vưởng như những
cô hồn phiêu bạt, không bị chi phối bởi bất cứ chế tài nào.
Lịch sử cho biết, mại dâm, với tư
cách là một loại hình hoạt động tham gia vào cơ cấu xã hội đã có từ rất lâu,
chí ít ra là từ nền văn minh Hy – La, Ai Cập, Xuân thu chiến quốc… Như vậy, mại
dâm là hiện tượng xã hội, chính quyền khôn ngoan là chính quyền biết cách kiểm
soát nó thông qua chế tài chứ không thể triệt tiêu nó. Còn vì hệ ý thức mà sĩ
diện, bỏ rơi nó là thiếu sáng suốt, sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.
Trước năm 1954, chắc chắn số lượng
đĩ điếm trên lãnh thổ Việt Nam không đáng là bao nhưng người Pháp đã có đạo luật
rõ ràng cho những đối tượng hành nghề này. Các chính quyền địa phương quản lý
chị em bằng môn bài đồng thời buộc các chủ chứa đóng thuế. Mặt khác, nhằm bảo vệ
sức khỏe cho gái mại dâm, tránh tình trạng gieo rắc bệnh hoa liễu, nhà nước bảo
hộ còn xây nhà thương chuyên chữa bệnh phụ khoa. Ai không tin điều này xin đọc
phóng sự Lục xì của văn hào Vũ Trọng Phụng. Về một mặt nào đó, có thể
nói, người Pháp, tuy là thực dân nhưng cũng có một số chính sách nhân đạo.
Trong bộ tiểu thuyết Ông cố vấncủa nhà văn Hữu Mai có đoạn Ngô Đình Diệm
vi hành ra đường phố Sài Gòn. Ngồi trong xe hơi quan sát cuộc sống dân tình, tổng
thống bị các cô gái bán hoa xúm vào chèo kéo, sau khi về dinh Gia Long, được cận
vệ nói rõ sự thật, ông cho gọi Tổng Giám đốc Nha cảnh sát phải triệt hết các ổ
mại dâm, làm trong sạch đường phố. Em ruột ông, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu
không đồng tình với biện pháp trên. Ông ta nói đại ý rằng, một nhà nước dân chủ,
văn minh phải chấp nhận hoạt động mại dâm, điều quan trọng là phải biết cách kiểm
soát nó.
Thực trạng mại dâm ở Việt Nam đã
trở thành quốc nạn phát triển theo kiểu phản ứng dây chuyền vì nó chưa bao giờ
được nhìn nhận như một nguy cơ làm tổn thương danh dự dân tộc, băng hoại đạo đức,
phá vỡ những giá trị văn hóa tốt đẹp bằng nguy cơ “diễn biến hòa bình” thường
trực trong não trạng của các nhà lãnh đạo quốc gia. Mại dâm bị thả nổi thực chất
là môi trường béo bở để các quan chức tham nhũng đua nhau hành lạc bằng tiền
chùa và lũ đệ tử của thần Bạch My kiếm những món lợi kếch xù trên thân xác người
phụ nữ. Đó là thứ quan hệ hai chiều trong một liên minh ma quỷ luôn hành xử như
những băng đảng của thế giới tội phạm ngầm. Đại dịch HIV/AIDS đang phát triển với
tốc độ chóng mặt. Tính đến cuối năm 2011, Việt Nam với hơn 90 triệu triệu con Lạc
cháu Hồng, mà nạn mãi dâm gần như bị thả nổi triền miên, thử hỏi, đến thời điểm
này chúng ta đã có bao nhiêu người nhiễm căn bệnh thế kỷ?
Bảy mươi tư năm đã qua kể từ khi Tiếng
hát sông Hương ra đời, giờ, mỗi khi đọc lại tôi vẫn còn nghe văng vẳng đâu
đây lời bình đầy cảm xúc của thầy Hoàng Bỉnh Nhu, cho dù ông đã thành người
thiên cổ. Ông chết tức tưởi sau những năm liệt giường vì xuất huyết mạch máu
não. Cô Hoàng Lệ Chi, con gái út của thầy bỏ học giữa chừng bởi nhà nghèo, có
bao nhiêu tiền dồn vào thuốc thang cho bố, đành phải từ biệt bà mẹ già mắc chứng
quáng gà, ra Hà Nội làm nghề rửa bát thuê. Và rồi đây liệu em có thoát khỏi kiếp
đoạn trường?
Đ.V.S.
http://www.boxitvn.net/bai/38287
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét